Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Tổng hội Xây dựng Việt Nam: “Đừng nói tiền chùa”!
- Chúng tôi đánh giá rất cao sự cầu thị của Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Bộ Kế hoạch & Đầu tư thường xuyên đề nghị chúng tôi góp ý dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Tuy nhiên, về phía Tổng hội, thực hiện chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội, chúng tôi vẫn bảo lưu quan điểm Chính phủ không nên ban hành nghị định này.
Lý do là khuôn khổ và hiệu lực pháp lý của một nghị định sẽ không bao hàm hết rất nhiều những cấn đề của đầu tư từ nguồn vốn nhà nước hiện nay. Chúng ta đều thấy, hiện nay quy định về đầu tư từ nguồn vốn nhà nước nằm tản mạn, rải rác ở rất nhiều văn bản luật, từ Luật Đầu tư với Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước… Cho nên một nghị định khó làng mà quán xuyến hết. Vả lại, nhiều luật sau khi ban hành hiệu lực trên thực tế còn yếu, huống hồ chỉ là hiệu lực của một nghị định.
Về vấn đề này, trước sau chúng tôi vẫn nhất quán đề nghị Nhà nước phải ban hành riêng một luật. Và rất mừng, vừa rồi đã thấy tên dự luật về đầu tư công trong chương trình làm luật của Quốc hội năm 2007.
- Trong Hội thảo 20 năm đổi mới của Việt Nam tại Hà Nội hồi tháng 6, giáo sư Đại học Haward – ông David Dapice – có nói rằng thất thoát, lãng phí đầu tư hàng năm của Việt Nam lên đến 1 tỉ USD. Tổng hội Xây dựng Việt Nam bình luận như thế nào, thưa ông?
- Đầu tháng 12 vừa rồi, Tổng hội Xây dựng Việt Nam đề xuất và được Thủ tướng giao chủ trì một hội thảo rất quy mô về hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước. Tại hội thảo này, chúng tôi đã phân tích rất rõ những vấn đề của đầu tư công lâu nay. Thứ nhất, có thể nói là hiệu quả đầu tư thấp, đầu tư dàn trải. thể hiện bởi hệ số hiệu quả vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ICOR – là tỷ lệ % vốn đầu tư bỏ ra để tạo ra một đơn vị % gia tăng GDP. Đây là chỉ số người ta thường dùng trong phân tích kinh tế vĩ mô để đánh giá hiệu quả đầu tư. Chỉ số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp. Ở các nước phát triển, chỉ số này thường chỉ dao động trong khoảng 3,5 - 4% (cá biệt như Đài Loan giai đoạn 1960-1970, với mức thu nhập như Việt Nam hiện nay, họ đạt chỉ số ICOR 2,4 trong khi mức tăng trưởng đạt 11%). Trong khi ở ta, giai đoạn 1990-2000, chỉ số ICOR là 4,1. Giai đoan 2001 – 2005 còn tăng lên tới xấp xỉ 5.
Nhiều chuyên gia kinh tế nước ngoài cũng đánh giá thấp hiệu quả đầu tư công của ta. Như tính toán của giáo sư David Dapice thì với tốc độ đầu tư cao như Việt Nam , mức tăng trưởng tương xứng phải đạt từ 9-10% chứ không phải như hiện nay. Kết quả giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các kết quả thanh tra, kiểm tra của ta cũng cho thấy hiệu quả đầu tư rất thấp. Thể hiện qua chất lượng quy hoạch (nhiều bất cập, chưa sát thực tế, thiếu tầm nhìn dài hạn) rồi đầu tư dàn trải, tiến độ thi công dự án chậm trễ, kéo dài. Đặc biệt là tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xảy ra ở tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư.
- Nghe nói, trong phần tham luận của mình tại hội thảo vừa tổ chức, Tổng hội Xây dựng Việt Nam đã lập 5 trang phụ lục để tổng hợp các nguyên nhân và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả đầu tư. Những chỉ nói một nguyên nhân cốt yếu nhất, thì đó là gì?
- Sợ người ta lại bảo “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Thực trạng của đầu tư công - Chính phủ biết, các bộ, ngành đều biết. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng X đã nhận định “hiệu quả đầu tư thấp, đặc biệt là tình trạng đầu tư của Nhà nước dàn trải, thất thoát nhiều”. Còn nếu nói một nguyên nhân cốt yếu nhất có thể chỉ ngay là “vai trò làm chủ”. Lâu nay chúng ta cứ nói “tiền chùa” nhưng bây giờ nói thế quả là oan cho nhà chùa. Nhà chùa bây giờ quản chặt lắm, chỉ có tiền công mới thất thoát, lãng phí thôi. Tại sao đầu tư của tư nhân và các thành phần kinh tế khác hiệu quả rất cao, còn đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước hiệu quả lại thấp? Vì vậy, để làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể trực tiếp tham gia quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư này. Phải phân công, phân cấp rõ ràng, xây dựng chế độ trách nhiệm của các chủ thể tham gia các giai đoạn của dự án, tuyệt đối không để nhầm lẫn giữa chức năng quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp như lâu nay.
Nguồn: Pháp luật Việt Nam 13/12/2006








