Phát triển nguồn nhân lực: Con đường ngắn nhất tạo ra sức mạnh cạnh tranh
1. Đặc điểm nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao - trước hết, đó là một bộ phận của toàn bộ nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cũng như tay nghề cao nhất. Nói cách khác, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng lao động có trình độ và tay nghề khá cao, được đào tạo một cách bài bản, có hệ thống. Đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao được phân bổ khá rộng: Trình độ trung cấp nghề, công nhân bậc 3/7 trở lên làm việc trong các doanh nghiệp sản xuất; trình độ trung cấp chuyên nghiệp làm việc cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể; trình độ đại học, cao đẳng, làm việc cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, làm chuyên gia, tư vấn cho các thành phần kinh tế, làm giảng viên, giáo viên cho các trường phổ thông, trường nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước; trình độ sau đại học (thạc sỹ, tiến sỹ…) làm chuyên gia, cán bộ quản lý các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ nghiên cứu các cục, vụ, viện, giảng viên các trường đại học, cao đẳng.
Bộ phận nguồn nhân lực chất lượng cao được làm việc trong các doanh nghiệp đến các cơ quan quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể, các cơ sở giáo dục đào tạo là nhưng người có trình độ học vấn và tay nghề khá cao. Đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
Kết quả hoạt động của nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ phụ thuộc vào bản thân, mà còn phụ thuộc vào môi trường xã hội.
Nếu hoạt động sản xuất vất chất của con người là sự tác động của con người vào đối tượng vất chất nhằm biến đổi đối tượng ấy và tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người và xã hội, thì hoạt động của nguồn nhân lực chất lượng cao chính là hoạt động với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động xã hội nhằm biến đổi chủ thể của mọi hoạt động xã hội - sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Nhờ được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn và tay nghề cao, kinh nghiệm xã hội phong phú, do đó sức mạnh về thể chất và tinh thần của đội ngũ này có tác dụng thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển. Hoạt động của toàn bộ nguồn nhân lực, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò nòng cốt (chủ thể của mọi hoạt động xã hội), tham gia trực tiếp vào hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động của nguồn nhân lực chất lượng cao là một hoạt động mang tính chất đặc thù, nó không chỉ là hoạt động của người có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, mà còn thể hiện con người có phẩm chất đạo đức chính trị, tình cảm trong sáng và có lý tưởng cách mạng cao quý, là người sống có ích không chỉ cho bản thân mà cho cả xã hội. Hoạt động của đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao luôn đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH và sự nghiệp phát triển đất nước. Để hoạt động này có hậu quá thì bản thân nguồn nhân lực chất lượng cao phải đảm bảo chất lượng, được trang bị những kiến thức cơ bản về trình độ chuyên môn, tay nghề, phẩm chất đạo đức chính trị, có kỹ năng nghiệp vụ thành thạo, có bề dày kinh nghiệm, được trang bị cơ sở vật chất, thiết bị hoàn hảo phục vụ cho hoạt động của mình một cách hiện đại, tiên tiến, đủ về số lượng và có sự phù hợp về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước.
Bản thân hoạt động nguồn nhân lực chất lượng cao là hoạt động mang tính xã hội cao; sản phẩm do nguồn nhân lực chất lượng cao tạo ra không hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân nó, mà còn phụ thuộc vào môi trường xã hội. Bởi lẽ, sản phẩm do nguồn nhân lực chất lượng cao tạo ra chịu tác động từ nhiều yếu tố: hệ thống chính sách, pháp luật, cơ chế về kinh tế, xã hội, quản lý nhà nước...
Đương nhiên, chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao phụ thuộc vào chất lượng giáo dục - đào tạo của mỗi quốc gia. Theo đó, chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao liên quan đến nhiều vấn đề: Đảm bảo dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục - đào tạo và các mối quan hệ khác, trong đó giáo dục - đào tạo là quan trọng nhất và đóng vai trò quyết định. Việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho một quốc gia, một vùng lãnh thổ chỉ có thể thực hiện được thông qua giáo dục - đào tạo. Đội ngũ này bao gồm các giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục đào tạo đội ngũ nhân viên phục vụ công tác đào tạo... Những lực lượng này là người trực tiếp kết hợp với các yếu tố khác như cơ sở vật chất, trang thiết bị ...để tạo ra một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ chuyên môn từ công nhân kỹ thuật cho đến cán bộ có trình độ đại học và sau đại học cho xã hội. Mặt khác, nguồn nhân lực chất lượng cao được duy trì và nâng cao khi được giáo dục - đào tạo tốt. Do đó, có thể khẳng định, việc nâng cao chất lượng chính là yếu tố quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực.
2. Nguồn nhân lực chất lượng cao: Động lực, mục tiêu để phát triển
Ở nước ta, để có đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao vừa đảm bảo về số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH và đòi hỏi yêu cầu cao của sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế, thì nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao cần được đào tạo theo một quy trình nhất định, họ cần được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết.
Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đảm bảo về số lượng và chất lượng, phù hợp về cơ cấu và có chính sách đào tạo sử dụng hợp lý là hết sức quan trọng, có vai trò quyết định tới sự phát triển nguồn nhân lực nói chung của đất nước.
Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy. Phát triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: Nhân lực (nguồn lực con người), vật lực (nguồn lực vật chất: công cụ lao động, đối tượng lao động, tài nguyên thiên nhiên...), tài lực (nguồn lực về tài chính, tiền tệ)… Song, chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Từ thời kỳ xa xưa, con người bằng công cụ lao động thủ công và nguồn lực do chính bản thân tạo ra để sản xuất ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Sản xuất ngày càng phát triển, sự phân công lao động ngày càng chi tiết, hợp tác chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động của con người cho máy móc thiết bị thực hiện, làm thay đối tính chất của lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nhưng cả trong điều kiện đạt được tiến bộ khoa học - kỹ thuật hiện tại như hiện nay thì cũng không thế tách rời nguồn lực con người, bởi lẽ:
- Chính con người đã tạo ra máy móc thiết bị hiện tại đó.
- Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự điều khiển, kiểm tra của con người (tức là có sự tác động của con người) thì chúng chỉ là thứ vật chất, chỉ có tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào hoạt động.
Cho nên, nếu xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và chí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực của con người. Đối với một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như nước ta (dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào. ..) đã trở thành một nội lực quan trọng nhất. Nếu biết khai thác tốt - sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển đất nước.
Phát triển kinh tế - xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh. Nói cách khác, con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Như vậy, nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù mức độ phát triển quyết định mức độ tiêu dùng, song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động mạnh mẽ tới sản xuất, định hướng phát triển sản xuất thông qua quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường.
Nhu cầu của con người là vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên, nó bao gồm nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần, về số lượng và chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng, điều đó tác động tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
3. Mối quan hệ giữa nguồn nhân lực và CNH - HĐH
Nhận thức rõ sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đến quá trình CNH - HĐH ngày nay, Hội nghị lần thứ bảy BCHTƯ khóa VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xem xét CNH trong mối quan hệ với HĐH và cho rằng: "CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
CNH và HĐH là 2 khái niệm không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Theo nghĩa của từ, HĐH là làm cho một cái gì đó mang tính chất của thời đại ngày nay. HĐH nền kinh tế quốc dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế đạt được trình độ tiên tiến của thời đại, đây chính là khía cạnh kinh tế - kỹ thuật của HĐH. Ngoài ra, HĐH còn bao hàm cả phương diện kinh tế - xã hội. Đó là quá trình xây dựng một xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội chủ yếu theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Nó làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư, thu hẹp dần sự chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội với các nước phát triển.
Đúc rút kết quả nghiên cứu về CNH, HĐH có thể khẳng định đây là một quá trình rộng lớn và phức tạp, bao hàm những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, nó là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Nói cách khác, đây là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại cùng với sự dịch chuyển lực lượng lao động thích ứng với cơ cấu ngành nghề.
Thứ hai, quá trình CNH, HĐH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một quốc gia; thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của đất nước.
Thứ ba, CNH, HĐH vừa là quá trình kinh tế kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Do vậy, nhìn theo chiều sâu của sự phát triển xã hội, nó là quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó phát triển con người và nguồn lực con người là nội dung cốt lõi.
Thứ tư, quá trình CNH, HĐH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có phân công lao động.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại - xu thế toàn cầu hóa, mô hình CNH kết hợp giữa thay thế nhập khẩu với đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng hội nhập quốc tế, đang được nhiều quốc gia áp dụng.
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam về cơ bản cũng đang vận động theo mô hình này. Tuy nhiên, do sự tác động và chi phối bởi những đặc điểm mới của thời đại và do những điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại của đất nước, quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay có những đặc điểm khác so với CNH trước đây. Đó là CNH gắn với HĐH dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, được thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế...Những đặc điểm cơ bản đó của quá trình CNH, HĐH cho thấy, giờ đây con người được đặt vào vị trí trung tâm: "Kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và xã hội, đặt con người vào vị trí trung tâm, phát triển nguồn nhân lực nhằm khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng của từng con người để con người có thể tham gia tốt nhất vào xây dựng đất nước". Như vậy, kết quả của quá trình CNH, HĐH ngày nay phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng nguồn lực con người, do đó nó đòi hỏi rất cao về những năng lực và phẩm chất cần thiết, nhất là trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Sẽ không thể có quá trình CNH - HĐH nếu thiếu một lực lượng lao động có sức khỏe, năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn nghề nghiệp giỏi, phẩm chất đạo đức tốt, khả năng thích nghi cao, năng lực hội nhập quốc tế... Nghĩa là, quá trình CNH, HĐH ngày nay đang chuyển từ chỗ chủ yếu khai thác nguồn lực tự nhiên và lao động cơ bắp sang khai thác phổ biến nguồn lao động trí tuệ, "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì lẽ đó, việc xây dựng mô hình, giải pháp chiến lược cho CNH, HĐH phải tính đến các nhân tố phát triển, trong đó có nguồn nhân lực.
4. Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH - HĐH của Việt Nam
Về vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: nâng cao dân trí và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước". Các công trình nghiên cứu và thực tế phát triển của đất nước đều khẳng định vai trò có tính chất quyết định của nguồn nhân nhân lực đối với quá trình CNH - HĐH. Vai trò đó được thể hiện trên 2 mặt:
Thứ nhất, các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên không có sức mạnh tự thân. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động của con người.
Thứ hai, con người với trí tuệ của mình - là nguồn lực không bao giờ cạn kiệt, có khả năng khôi phục và tự tái sinh. Quan điểm phát triển nguồn lực đã được nhiều quốc gia quan tâm và vấn đề này đang được nói lên ở khu vực Đông Á. Xuất phát là những nước nghèo, chỉ có thề rút ngắn thời kỳ CNH và đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong trường hợp đầu tư phát triển nhanh nguồn lực. Sự đầu tư được hiểu dựa trên cả 3 mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống và phát triển giáo dục, trong đầu tư có hiệu quả nhất là đầu tư giáo dục.
Vào những năm 1980, quan điểm về phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Con người được coi là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển. Không thể xem xét khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía mà phải nhận thấy vai trò sản xuất của nguồn nhân lực - vấn đề cốt lõi của học thuyết "vốn con người" và vai trò của nó được thể hiện bằng chất lượng cuộc sống. Cơ chế nối liền 2 vai trò là trả công cho người lao động tham gia các hoạt động kinh tế và thu nhập đó đầu tư trả lại cho con người để nâng cao mức sống. Đặc biệt là từ những năm 1990, khi cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật bước sang giai đoạn mới và bước tiến phi thường của công nghệ thông tin, việc áp dụng kỹ thuật tin học với nhưng sản phẩm phần mềm tự động hoá đã liên tục làm biến đổi quá trình sản xuất và tăng năng xuất lao động. Điều này làm nảy sinh mâu thuẫn giữa thực tiễn sản xuất và sự phân công lao động hiện tại, buộc hình thành về cơ chế mới về lao động trong sự thay đổi thang giá trị con người; đồng thời phải xem xét lại toàn bộ hệ thống đào tạo nhân công khi mối quan hệ chặt chẽ giữa các khía cạnh công nghệ, xã hội và kinh tế được hình thành. Triết lý kinh doanh chuyển từ công nghệ là trung tâm sang con người là trung tâm với các ưu tiên tri thức, trình độ chuyên môn và động cơ lao động.
Xem xét yếu tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội, UNESCO đã nêu: " ...Con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác nhân và là mục đích của sự phát triển". Trong bối cảnh giao lưu, mở cửa đất nước hiện nay, chúng ta có lợi thế của nước đi sau, thấy được những thuận lợi, khó khăn để rút ra những bài học cho chính mình. Phát triển CNH - HĐH đất nước, về thực chất chính là quá trình chiến lược phát triển con người. Thực ra, đây không phải là 2 vấn đề song song hay tách biệt nhau mà là 2 cách thể hiện của một nội dung thống nhất phát triển đất nước. Đi lên từ xã hội nông nghiệp lạc hậu, điểm xuất phát là CNH - HĐH thấp, kết cấu hạ tầng yếu kém, trình độ khoa học và công nghệ lạc hậu, khả năng về vốn còn hạn chế. Do đó, phải biết huy động và sử dụng vốn có hiệu quả tất cả mọi nguồn lực mà một trong những nguồn lực lớn nhất đó là nguồn lực con người.
Khi xác định nguồn lực con người là yếu tố quyết định của quá trình CNH - HĐH đất nước, cần xem xét nguồn lực đó trên cả 2 phương diện: số lượng và chất lượng để có giải pháp xây dựng và khai thác hợp lý.Mặc dù ở nước ta có số lượng lao động đông, trẻ, song chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, việc sử dụng nguồn nhân lực còn chưa hợp lý, chưa sử dụng một cách có hiệu quả. Trước yêu cầu CNH - HĐH đang đặt ra hiện nay là Việt Nam cần tăng trưởng nguồn nhân lực này, tạo ra khả năng lao động mới cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực, sử dụng nguồn nhân lực nhằm đẩy mạnh nhanh quá trình CNH - HĐH như mục tiêu Đại hội Đảng VIII và các đại hội tiếp theo đã đề ra, đồng thời theo kịp xu hướng phát triển của khu vực và thế giới, không có sự lựa chọn nào khác đó là phải chuẩn bị tốt hơn chiến lược con người, có ý thức khai thác, sử dựng nguồn nhân lực vô tận này.








