Phát triển nguồn lực khoa học và công nghệ trên vùng đất Tây Nguyên
Tây Nguyên là vùng đất đẹp và trù phú, nhưng để Tây Nguyên giàu lên, để phát triển Tây Nguyên thành vùng đất trù phú hơn, để nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần của các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, để miền núi tiến kịp miền xuôi trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), để đất nước phát triển hài hòa giữa các vùng miền, thì còn quá nhiều bất cập. Bởi vì, nếu coi KH-CN là nền tảng của sự phát triển bền vững, làm tiền đề cho sự phát triển các lĩnh vực, thì sự cách biệt trong lĩnh vực này giữa Tây Nguyên và các vùng khác còn quá lớn.
Số lượng các đề tài nghiên cứu mà các trường thực hiện hằng năm là rất ít. Trong năm năm qua, chỉ có Ðại học Ðà Lạt đã nhận được một đề tài nhánh của đề tài cấp Nhà nước với kinh phí 20 triệu đồng/năm và đã kết thúc trong năm 2005. Từ đó đến nay không trường nào có đề tài cấp nhà nước. Năm 2007, không có trường nào nhận được kinh phí nghiên cứu từ các đề tài cấp bộ (Giáo dục và Ðào tạo) đạt đến một tỷ đồng, thậm chí Ðại học Ðà Lạt chỉ nhận được hơn 500 triệu đồng thông qua 12 đề tài, còn Ðại học Tây Nguyên nhận được khoảng 700 triệu đồng thông qua chín đề tài. Với những đặc thù của vùng Tây Nguyên, đáng ra các cơ sở khoa học hàng đầu của vùng này phải có được những đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước nhằm vào những nội dung KH-CN gắn với các nhiệm vụ phát triển KT-XH của vùng.
Một câu hỏi có tính cốt lõi được đặt ra là, tại sao lại thiếu những đề tài như vậy? Trong các chương trình KH-CN cấp Nhà nước, có một số đề tài nghiên cứu liên quan những vấn đề KH-CN cần cho Tây Nguyên thì lại được tiến hành bởi những nhà khoa học ở các nơi khác. Giá mà các nhà khoa học Tây Nguyên được tham gia các đề tài như vậy thì tốt hơn nhiều. Các nhà khoa học từ các thành phố xa xôi chỉ có thể đi thực địa với một số đợt công tác hạn chế thì làm sao có điều kiện thuận lợi như những người ở ngay địa phương có thể tiến hành các cuộc khảo nghiệm với chi phí ít tốn kém hơn.
Nên chăng, trong những đề tài liên quan Tây Nguyên cần có sự tham gia của những cán bộ khoa học tại chỗ, nói chính xác hơn là các nhà khoa học thuộc các tổ chức nghiên cứu trong vùng, trước hết là các nhà khoa học từ các trường đại học và các viện chuyên ngành. Thiết nghĩ, việc đưa yêu cầu này vào quy chế xét duyệt và giao đề tài không có gì phức tạp. Tuy nhiên, điều còn có ý nghĩa quan trọng hơn là, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tìm ra cơ chế để có thể hình thành được những đề tài nghiên cứu trên cơ sở các đòi hỏi của sự phát triển KT-XH Tây Nguyên.
Các thành tựu trong khoa học tự nhiên và công nghệ, nếu được ứng dụng vào thực tế, sẽ góp phần không nhỏ vào công tác an sinh, bảo đảm an ninh xã hội bền vững. Cho nên, rất cần những đề tài nghiên cứu xuất phát từ yêu cầu thực tế của Tây Nguyên. Các đặc sản của Tây Nguyên như cà-phê, chè, cao-su, hoa, rau quả... rất cần những nghiên cứu để cải thiện giống, tăng năng suất và chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, chế biến sau thu hoạch, bảo quản và vận chuyển...
Tỉnh Đắk Lắk đã đặt yêu cầu rõ ràng là rất cần các nghiên cứu cải thiện giống các cây công nghiệp mà tỉnh có thế mạnh gần như độc tôn, tỉnh Lâm Ðồng cũng mong muốn các cơ quan trung ương ủng hộ và hỗ trợ để ngành sản xuất hoa Ðà Lạt - Lâm Ðồng phát triển toàn diện, mở rộng quy mô diện tích lên gấp nhiều lần, hội nhập vững chắc vào thị trường hoa thế giới. Chỉ nêu một số yêu cầu cụ thể như vậy cũng có thể thấy, không thiếu nội dung cho những đề tài, thậm chí chương trình nghiên cứu KH-CN cấp Nhà nước.
Vấn đề là làm sao có sự phối hợp tốt giữa trung ương và địa phương, hỗ trợ các địa phương trong việc xây dựng và đề xuất các đề tài để cấp trung ương đưa vào các chương trình hoặc hình thành các đề tài độc lập. Ðương nhiên, sự phối hợp lực lượng nghiên cứu giữa trung ương và địa phương là không thể thiếu. Nếu không có sự tham gia, hoặc phần lớn là chủ trì, của các cán bộ khoa học đầu ngành thường là từ các viện, trường ở trung ương, thì một mình lực lượng nghiên cứu ở địa phương cũng khó đảm đương những đề tài lớn, đòi hỏi có sự tập trung nhiều chất xám cũng như trang thiết bị hiện đại. Mong muốn của địa phương chỉ là được tham gia những công trình nghiên cứu phục vụ thiết thực việc giải quyết những nhiệm vụ KT-XH của địa phương mình.
Một thu hoạch rất chung từ chuyến đi Tây Nguyên, cũng như các chuyến khảo sát ở các tỉnh khác thuộc ba miền bắc, trung, nam là: Số lượng doanh nghiệp lớn không nhiều, thậm chí không có. Tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa cũng rất ít. Vì vậy, yêu cầu ứng dụng kết quả nghiên cứu KH-CN, và đi theo đó là kinh phí nghiên cứu, từ khu vực sản xuất nói chung là rất nhỏ. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu của các đề tài cấp địa phương hoặc cấp cơ sở lại chủ yếu phục vụ cho các đối tượng là nông dân hoặc các tập thể, doanh nghiệp nhỏ. Ðây là những đối tượng khá thụ động trong áp dụng các tiến bộ KH-CN.
Gắn với chuyện thu hồi kinh phí triển khai các dự án là việc yêu cầu các tổ chức KH-CN địa phương chuyển đổi phương thức hoạt động theo Nghị định 115/2005/NÐ-CP của Chính phủ. Qua phản ánh của lãnh đạo và cơ quan quản lý KH-CN các địa phương mà đã khảo sát, kể cả ở Đắk Lắk và Lâm Ðồng, có thể khẳng định, các địa phương không thể chuyển đổi xong trước thời hạn 31/12/2009, mà đều đề nghị lùi lại ít nhất từ hai đến ba năm.
Vấn đề không phải là lùi thời hạn chuyển đổi, mà nên xem lại chủ trương bắt buộc này đối với các tổ chức KH-CN địa phương. Tình hình cụ thể của các địa phương cũng không giống nhau, nên chăng để từng địa phương quyết định việc thực hiện Nghị định 115 tại địa phương mình như thế nào là có lợi nhất. Bởi mục đích của chủ trương này là nêu cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH-CN chứ đâu phải vì tiết kiệm biên chế và ngân sách (thực ra hai khoản này ở các địa phương không lớn), cho nên, gò ép để rồi có thể gây trở ngại cho hoạt động KH-CN ở địa phương là điều không nên.
Vấn đề tiềm lực KH-CN của Tây Nguyên có tầm quan trọng hết sức lớn đối với công cuộc phát triển vùng đất này nói riêng và đất nước nói chung. Có thể nói rằng, tiềm lực KH-CN của Tây Nguyên là quá nhỏ bé so với cả nước, đặc biệt là so với vị thế hấp dẫn và quan trọng của nó. Con người và cơ sở vật chất đều thiếu và yếu, trong khi sự phối hợp và hợp tác giữa các trường, viện, cơ sở sản xuất kinh doanh đều chưa tốt.
Các trường đại học và viện nghiên cứu đều gặp phải khó khăn rất cơ bản và dễ hiểu là khó mời và khó giữ người. Trong cả hai trường đại học thì không trường nào có hơn 40 tiến sĩ. Viện Sinh học Tây Nguyên chỉ có bốn tiến sĩ. Viện Pasteur Ðà Lạt thì đã tìm ra con đường tồn tại và phát triển bằng cách chuyển thành Công ty vaccine Pasteur Ðà Lạt (từ đầu năm 2008). Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm Tây Nguyên (trước đây là Viện Nghiên cứu cà-phê) cũng gặp không ít khó khăn...
Nhìn chung, việc thiếu nhân lực KH-CN, nhất là những nhà khoa học đầu ngành, là do vị trí địa lý và trình độ phát triển của Tây Nguyên. Không thể không tìm ra cách cải thiện tình hình này. Không những thế, việc đầu tư thỏa đáng nhân lực và cơ sở vật chất cho KH-CN (gồm các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu) phải được coi là đòi hỏi cấp bách hiện nay. Bởi đó là việc làm có tính quyết định không phải chỉ cho sự phát triển của Tây Nguyên, mà quan trọng hơn, là đối với sự phát triển hài hòa và bền vững của đất nước.








