Phát triển khu CNTT tập trung ở Việt Nam
Thực trạng phát triển khu CNTT tập trung ở Việt Nam
Hiện nước ta có 7 khu theo mô hình khu CNTT tập trung đang hoạt động, bao gồm: Công viên phần mềm Quang Trung (QTSC), Trung tâm công nghệ phần mềm Thành phố Hồ Chí Minh (SSP), Khu công nghệ phần mềm Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (VNU-ITP), các tòa nhà E-Town (công ty cổ phần cơ điện lạnh REE), Công viên phần mềm Đà Nẵng, Trung tâm giao dịch công nghệ thông tin Hà Nội và Trung tâm công nghệ phần mềm Cần Thơ. Đến năm 2010, tổng số vốn đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu CNTT tập trung là hơn 3.000 tỷ đồng, thu hút được hơn 400 doanh nghiệp CNTT hoạt động. Tổng số nhân lực đạt trên 35.000 người và chiếm khoảng 25% toàn bộ nhân lực ngành công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung số. Khu CNTT tập trung tiêu biểu và thành công nhất hiện nay là Công viên phần mềm Quang Trung (QTSC) với trên 100 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động. Hiện số người làm việc và học tập tại QTSC khoảng 22.500 người, doanh thu năm 2010 trên 90 triệu USD.
Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ nhưng việc phát triển các khu CNTT tập trung ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế nhất định. Môi trường ngành công nghệ cao của Việt Nam còn đang trong quá trình hình thành, chưa có chiến lược và quy hoạch cụ thể để tạo ra sự phát triển đột phá. Số lượng các khu CNTT chưa nhiều, tập trung chủ yếu ở TP.HCM. Số khu CNTT thực sự hoạt động hiệu quả, đáp ứng được các tiêu chí trong Nghị định 71/2007/NĐ-CP của Chính Phủ chỉ có Công viên phần mềm Quang Trung, Công viên phần mềm Đà Nẵng, Trung tâm công nghệ Sài Gòn và Khu công nghệ phần mềm ĐH Quốc Gia TP.HCM. Tuy vậy, các khu CNTT này vẫn chưa thu hút được sự đầu tư của các doanh nghiệp hàng đầu thế giới trong lĩnh vực CNTT. Các dự án đầu tư lớn, đặc biệt về công nghiệp phần cứng đều là những dự án trong các khu công nghiệp hoặc khu công nghệ cao.
Đi tìm nguyên nhân
Có lẽ nguyên nhân đầu tiên đến từ sự thiếu hụt về hành lang pháp lý cho khu CNTT tập trung. Mặc dù khu CNTT tập trung là một khái niệm đã được luật hóa cụ thể tại điều 19 của Luật Công nghệ thông tin năm 2006 và quy định hóa cụ thể tại Nghị định số 71/20007/NĐ-CP nhưng trong quá trình xin cấp phép thành lập và triển khai thực hiện các địa phương và các đơn vị vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Khác với các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, hay là khu kinh tế, trong Luật Đầu tư chưa có các quy định về đầu tư xây dựng mới các khu CNTT tập trung. Điều này làm cho các địa phương trở nên lúng túng khi tổ chức thực hiện các dự án đầu tư xây dựng khu CNTT tập trung.
Ông Phạm Kim Sơn, Giám đốc Sở TT&TT Đà Nẵng: “Rất nhiều địa phương sẵn sàng chi hàng chục tỷ đồng để đầu tư xây dựng hạ tầng, nhưng không sẵn sàng chi vài trăm tỷ cho một khu CNTT tập trung” - Hội thảo tổng kết Chương trình công nghiệp CNTT ngày 07/11/2012, Hà Nội.
Bên cạnh đó, việc chưa có các quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý (BQL) khu CNTT tập trung như cấp phép đầy tư, cấp chứng chỉ quy hoạch xây dựng, quản lý lao động, ưu đãi thuế…; hay như việc chưa có hướng dẫn quy hoạch phân khu chức năng đối với khu CNTT tập trung như khu nhà ở cho chuyên gia, tỷ lệ sử dụng đất cho các khu chức năng… cũng là những hạn chế không nhỏ đối với việc thu hút đầu tư, tốc độ xây dựng vào quy trình quản lý.
Nguyên nhân tiếp theo phải kể đến sự đầu tư của nhà nước cho khu CNTT chưa thực sự thỏa đáng. So với các khu công nghệ cao (thường có quy mô rất rộng, trên dưới 1.000 ha) vẫn được đầu tư rất nhiều của nhà nước, thì các khu CNTT tập trung cần sự đầu tư ít hơn nhiều. Quyết định 50/2009/QĐ-TTg được ban hành với tổng số vốn dành cho hỗ trợ phát triển các khu CNTT tập trung trên cả nước khoảng 400 tỷ, nhưng chỉ triển khai được hơn 5 tỷ cho Thành phố Đà Nẵng. Chính vì vậy, tính đến nay đa phần các khu CNTT trên cả nước mới dừng lại ở mức quy hoạch.
Bên cạnh đó còn hàng loạt các nguyên nhân khác kìm hãm sự phát triển của khu CNTT như: chất lượng nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ thông tin truyền thông, công tác làm thương hiệu…
Giải pháp
Qua phân tích các tồn tại trong thực tiễn quản lý và phát triển khu CNTT tập trung, cho thấy cần phải có các quy định mới để tạo động lực thúc đẩy ngành công nghiệp CNTT và giải quyết các vướng mắc tồn tại do các quy định trong Nghị định 71/2007/NĐ-CP đã không còn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay như: các loại hình và tiêu chí đánh giá khu CNTT tập trung; quy định trong quá trình đầu tư, thành lập và công nhận khu CNTT tập trung; quy định về mô hình hoạt động và tổ chức quản lý khu CNTT tập trung.
Trong bối cảnh đầu tư của nhà nước cho CNTT nói chung còn hạn chế, việc xã hội hóa đầu tư xây dựng khu CNTT tập trung là rất cần thiết. Theo kinh nghiệm của một số quốc gia có các khu CNTT thành công trên Thế giới, việc xã hội hóa đầu tư phát triển các khu CNTT tập trung có vai trò quan trọng trong việc mang lại thành công cho các ngành CNTT quốc gia. Điển hình là Ấn Độ, khi nói đến ngành CNTT tại đây người ta thường nghĩ tới Bangalore với 1/3 tổng doanh số từ xuất khẩu phần mềm. Tuy nhiên đằng sau đó với 2/3 tỷ trọng còn lại tập trung chủ yếu tại hệ thống 53 Công viên phần mềm STPI (Software Technology Parks of India) trải rộng hầu hết các bang tại Ấn Độ. Các công viên này có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động hết sức linh hoạt. Chính phủ Ấn Độ có chính sách thu hút nguồn lực xã hội từ các khu vực tư nhân, các trường đại học… để phát triển STPI hết sức cụ thể. Cùng với đó, các doanh nghiệp hoạt động trong đó được hỗ trợ ưu đãi đặc biệt để phát triển. Những điều này đã góp phần không nhỏ trong những năm vừa qua. Ở nước ta hiện nay, các khu CNTT tập trung ở Đà Nẵng hay TP.Hồ Chí Minh cũng đang khá thành công với mô hình xã hội hóa.
Các chính sách về thuế và tài chính cũng cần được tiếp tục hoàn thiện. Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong khu CNTT tập trung hiện nay thuộc lĩnh vực phần mềm và dịch vụ CNTT. Theo quy định của các văn bản về thuế thu nhập doanh nghiệp, lĩnh vực phần mềm thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng thuế xuất 10%, kể cả trong các doanh nghiệp hoạt động trong khu và ngoài khu. Do vậy, các chính sách ưu đãi đối với khu CNTT tập trung không hấp dẫn các doanh nghiệp tham gia. Bên cạnh đó, để các doanh nghiệp hoạt động trong các khu CNTT tập trung được hưởng các chính sách ưu đãi như khu công nghệ cao cũng còn gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện, vì trong các văn bản vi phạm pháp luật chuyên ngành về thuế hiện nay, chưa hề có bất kỳ quy định nào liên quan đến khu CNTT tập trung.
Được biết, hiện Bộ TT&TT đã trình dự thảo Nghị định quản lý và thúc đẩy phát triển quá trình này. Hy vọng sau khi được phê duyệt, Nghị định này sẽ tạo ra được hiệu ứng mạnh về thu hút đầu tư, quảng bá thương hiệu; khắc phục những hạn chế đang tồn tại; phát triển thị trường CNTT trong nước và vươn ra thị trường quốc tế trong giai đoạn tới.








