Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 24/11/2010 19:08 (GMT+7)

Phát triển giáo dục - đào tạo nâng cao dân trí vùng Tây Bắc

Nhận thức rõ về vai trò, vị trí của vùng Tây Bắc, những năm qua, Đảng, nhà nước ta đã không ngừng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đầu tư đề phát triển vùng Tây Bắc và đã mang lại những thay đổi tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc ngày càng được nâng lên, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, đây vẫn là vùng kém phát triển nhất trong cả nước; quy mô kinh tế còn nhỏ bé, chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, hiệu quả thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, các tiềm năng, lợi thế lớn của vùng chậm được khai thác; phát triển kinh tế chưa kết hợp tốt với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên; đời sống của một bộ phận không nhỏ đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa; độ doãng cách về phát triển kinh tế - xã hội và mức sống của người dân trong vùng với cả nước có xu hướng ngày càng xa; tỷ lệ hộ nghèo còn cao... Có thể nói, sự phát triển của Tây Bắc chưa tương xứng với tiềm năng, với yêu cầu và mong muốn. Thực trạng công nghiệp hoá hiện đại hoá vùng Tây Bắc, gồm cả những kết quả đạt được và những yếu kém, hạn chế có một nguyên nhân rất quan trọng, đó là sự tác động của ý thức xã hội - với tính cách là cái phản ánh tồn tại xã hội vùng này. Ý thức xã hội tác động theo hai chiều hướng: tích cực - thúc đẩy và tiêu cực cản trở quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì thế, xây dựng các giải pháp để phát huy những tác động tích cực và khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của ý thức xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng để đảm bảo thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng Tây Bắc. Trong các giải pháp đó, đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dân trí là giải pháp trực tiếp, hàng đầu.

Nói đến ý thức là nói đến sự hiểu biết của con người. Sự hiểu biết của từng người cũng như của xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, suy cho cùng được hình thành từ những tri thức thu nhận trực tiếp từ cuộc sống, từ hoạt động thực tiễn; từ sự kế thừa tri thức ở trong và ngoài nước qua hệ thống giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Xã hội càng phát triển bao nhiêu thì nguồn tri thức đem lại từ hệ thống giáo dục càng to lớn và quan trọng bấy nhiêu, nhờ đó mà tác động trở lại của nó đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội càng mạnh mẽ. Đối với vùng Tây bắc, nơi mà trình độ dân trí còn rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước thì việc phát triển giáo dục và đào tạo lại càng có vai trò quan trọng. Xét cho cùng, các dân tộc thiểu số Tây Bắc đi vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, bởi vậy, sự đòi hỏi quan trọng là phải phát triển giáo dục, văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, đầu tư đặc biệt cho "cơ sở hạ tầng con người". Bên cạnh xóa đói, giảm nghèo chung, cần tập trung "xóa đói, giảm nghèo" riêng ở lĩnh vực văn hóa, giáo dục... đối với đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc.

Những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở vùng Tây Bắc đã đạt được một số kết quả ban đầu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu kém. Số người không đi học chiếm tỷ lệ 26,8%. Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp do tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu ban cao.

Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông trong mấy năm gần đây của nhiều tỉnh trong vùng luôn ở trong nhóm thấp nhất nước, tỷ lệ thí sinh trúng tuyển vào các trường đại học và cao đẳng hằng năm còn rất thấp (bình quân 9- 1 0% tổng số thí sinh dự thi, có tỉnh chỉ đạt 4-5%). Quy mô học sinh, sinh viên của các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng sư phạm của hầu hết các tỉnh còn nhỏ. Chất lượng đầu vào của sinh viên theo hệ cử tuyển chưa cao. Sự phối hợp giữa nhà trường và địa phương trong quá trình đào tạo cử tuyển, công tác quản lý học sinh dự bị chưa chặt chẽ. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, yêu về chất lượng và chưa đồng bộ về cơ cấu. Giáo viên là người dân tộc thiểu số ở các bậc học sau trung học cơ sở còn chiếm tỷ lệ thấp. Đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, cán bộ giảng dạy có trình độ tiến sĩ ở các trường đại học và cao đẳng trong vùng nói chung và ở nhiều bộ môn, chuyên ngành đào tạo nói riêng thiếu trầm trọng. Điều kiện đảm bảo cho giảng dạy và học tập, cơ sở vật chất trường học còn nhiều thiếu thốn. Nhiều xã vùng cao còn thiếu phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện và các công trình phụ trợ khác. Hằng năm, đầu tư cho các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp của các tỉnh trong vùng mới đáp ứng được khoảng 50% đến 60% nhu cầu.

Thực trạng trên cho thấy, vấn đề cấp thiết hiện nay ở Tây Bắc là phải phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo một cách toàn diện để nâng cao trình độ dân trí. Khi trình độ dân trí phát triển, các dân tộc Tây Bắc sẽ nâng cao trình độ nhận biết các yếu tố tích cực của ý thức xã hội để giữ gìn, phát triển nó, từ đó vận dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội. Mặt khác là nhìn thấy những yếu tố tiêu cực, lạc hậu của ý thức xã hội để xoá bỏ, hạn chế những tác động tiêu cực của nó, đồng thời tiếp thu những hệ tư tưởng, lý luận khoa học, trang bị cho mình những tư duy khoa học, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có thể nói, đẩy mạnh giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ dân trí là một trong những giải pháp trực tiếp và hàng đầu để xây dựng và phát huy những tác động tích cực, hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của ý thức xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng Tây Bắc đến năm 2020. Để làm được việc đó trong những năm tới công tác giáo dục - đào tạo ở vùng Tây Bắc cần tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, tăng cường giáo dục, trang bị cho đồng bào các dân tộc Tây Bắc ý thức lý luận, tri thức, tư duy khoa học.

Đến nay, dù ý thức lý luận đã được tuyên truyền vào vùng này, nhưng mức độ hiểu biết còn chưa sâu rộng và có hệ thống; ý thức xã hội thông thường vẫn còn phổ biến và tác động không nhỏ tới đời sống của đồng bào các dân tộc. Tư duy kinh nghiệm, trực quan cảm tính vẫn tồn tại trong một bộ phận lớn đồng bào các dân tộc thiểu số; tư duy khoa học chưa phát triển. Đây chính là lực cản đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, cần phải trang bị cho đồng bào ý thức lý luận, tư duy khoa học để mỗi người dân, người lao động từng bước nâng cao tri thức chuyên môn, nghề nghiệp, biết tiếp thu, áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.

Có thể nói, đối với các dân tộc Tây Bắc hiện nay, giáo dục tư duy khoa học có vai trò quan trọng hàng đầu. Một khi năng lực tư duy khoa học được hình thành và phát triển phổ biến trong xã hội, thì năng lực sáng tạo của cá nhân và của xã hội sẽ có điều kiện và môi trường thuận lợi để phát triển, nhờ đó ý thức xã hội sẽ vượt qua được những hạn chế, khiếm khuyết của lối tư duy giáo điều kinh nghiệm, chủ quan, cảm tính để làm quen với tư duy biện chứng khoa học, gắn lý luận với thực tiễn. Muốn vận dụng tốt tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong hoạt động thực tiễn, một trong những nhân tố đảm bảo hàng đầu là mỗi cá nhân và cả xã hội phải được tiếp nhận giáo dục về phương pháp tư duy một cách sâu sắc có hệ thống, được thực hành phương pháp đó một cách sáng tạo. Năng lực hoạt động thực tiễn của con người như thế nào, điều đó phụ thuộc một phần lớn ở năng lực làm chủ về phương pháp, biết dùng phương pháp, dùng lý luận khoa học để hành động một cách sáng tạo trong thực tiễn.

Hai là, đẩy mạnh giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân các dân tộc Tây Bắc.

Trong số các hình thái ý thức xã hội thì ý thức pháp luật có sự tác động mạnh đối với các hình thái ý thưa xã hội khác, cũng như tác động trở lại tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế - xã hội và được thể hiện trong hệ thống pháp luật của nhà nước. Pháp luật là công cụ, là phương tiện chủ yếu và quan trọng nhất của Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý; là công cụ hữu hiệu bảo vệ chế độ. Do đó, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nhất là với nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Bởi lẽ, ở nhiều nơi vùng Tây Bắc hiện nay, ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân còn thấp, ý thức "lệ làng", coi "phép vua thua lệ làng", "lệ làng cao hơn phép nước" còn khá phổ biến. Hệ thống luật tục của các dân tộc còn tác động, chi phối nhiều mặt của đời sống xã hội các dân tộc. Thực tế ở nhiều nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, thói quen sống bằng tục lệ của bản, làng, của tộc người mà không coi trọng phép nước còn khá phổ biến. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, một bộ phận nhân dân có những hành vi vi phạm pháp luật, nhưng không phải là họ coi thường pháp luật mà là do không biết, không hiểu pháp luật. Vì thế, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật phải được coi là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, như Đảng ta đã chỉ rõ: Phải tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng.

Ba là, tăng cường giáo dục ý thức đạo đức. Trong xã hội ta hiện nay nói chung và Tây Bắc nói riêng, cùng với những truyền thống đạo đức cao đẹp đang trở thành nhân tố biểu hiện sự tiến bộ xã hội, là nguồn sức mạnh tinh thần trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì những biểu hiện của đạo đức cũ, lạc hậu vẫn còn khá phổ biến đòi hỏi phải loại bỏ. Mặt khác, những mặt trái của nền kinh tế thị trường như lối sống thực dụng, ích kỷ và các tệ nạn xã hội khác đang cản trở sự phát triển của xã hội. Chính vì thế phải tăng cường giáo dục đạo đức, xây dựng nhân cách con người tiến bộ, tạo môi trường xã hội lành mạnh để phát triển.

Bên cạnh việc không ngừng nâng cao hiệu quả của giáo dục ý thức lý luận, tri thức khoa học; giáo dục ý thức pháp quyền; giáo dục đạo đức, một vấn đề khác không kém phần quan trọng để công tác giáo dục và đào tạo ở vùng Tây Bắc đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là Nhà nước cần tập trung đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp kiên cố từ bậc tiểu học ở các xã đến bậc trung học phổ thông, chú trọng đầu tư phát triển loại hình trường nội trú cho con em đồng bào các dân tộc thiều số. Thực hiện giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông không mất tiền ở vùng Tây Bắc (kể cả các vùng đa dân tộc khác), nhất là các tộc người có số dân ít. Tiếp tục phát triển quy mô, xây dựng mạng lưới trường, lớp thích hợp trong vùng như trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú và trường phổ thông nội trú dân nuôi ở các xã. Kiên quyết không để tình trạng bản trắng giáo dục hoặc một lớp nhiều trình độ.

Trên cơ sở chính sách, cơ chế chung của cả nước, cần có những chính sách, cơ chế đặc thù áp dụng riêng cho vùng Tây Bắc nhằm huy động mọi tiềm năng, mọi nguồn lực tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và đào tạo trong vùng. Tập trung chỉ đạo triển khai tốt các chương trình trọng điểm quốc gia để tăng cường cơ sở vật chất, trường học và nâng cao năng lực đào tạo của đội ngũ giáo viên vùng dân tộc như: chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo, trong đó đặc biệt ưu tiên kinh phí cho các dự án tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, xây dựng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ giáo viên vùng dân tộc; tập trung xây dựng để sớm đưa vào sử dụng các công trình của trường Đại học Tây bắc tại thành phố Sơn La, góp phần đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh trong vùng. Ngoài ra, tiếp tục thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trong xây dựng và phát triển giáo dục - đào tạo.

Để tạo động lực và nguồn lực cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở vùng Tây Bắc, cần chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên cho các trường sư phạm trong khu vực. Cần có chế độ, chính sách ưu đãi, động viên đối với đội ngũ giáo viên sư phạm, nhất là giáo viên có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm. Mặt khác, cần khuyến khích học sinh các dân tộc thiểu số có học lực khá và giỏi vào học các trường sư phạm, sau này ra trường về phục vụ quê hương. Trong quá trình học tập ở nhà trường sư phạm, nhà nước kết hợp với địa phương thực hiện chế độ bao cấp toàn phần cho các em.

Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề của từng địa phương phải đặt trong mối liên hệ gắn kết với cả nước nhằm phát huy hiệu quả tối đa lợi thế của mỗi cơ sở đào tạo cũng như của tòan hệ thống. Các trường đại học và cao đẳng phải được tổ chức theo hướng đa ngành, đa trình độ. Mọi hoạt động giáo dục và đào tạo phải phù hợp với những đặc trưng kinh tế - xã hội, điều kiện địa lý, điều kiện tự thiên, văn hóa, tập quán làm ăn sinh sống của nhân dân toàn vùng. Mỗi cơ sở giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực phải được đầu tư đúng mức để trở thành trung tâm văn hóa, trung tâm phổ biến kiến hức về khoa học và công nghệ trong cộng đồng.

Tiếp tục củng cố và phát triển các trung tâm giáo dục thường xuyên ở các huyện. Ngoài nhiệm vụ được giao theo quy định, các trung tâm này còn có trách nhiệm trong việc xoá mù chữ, mở các lớp dạy nghề cho thanh niên các dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông mà không có khả năng và điều kiện học ở các bậc cao hơn.

Xem Thêm

Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Công nghệ mới trong xử lý chất thải góp phần phát triển bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam
Ngày 3/7, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Liên hiệp hội tỉnh Bắc Ninh và Hội Chăn nuôi Việt Nam tổ chức Hội thảo Phổ biến một số công nghệ mới có hiệu quả trong xử lý chất thải chăn nuôi. Hội thảo thu hút sự tham dự của đông đảo người sản xuất, kinh doanh, hộ chăn nuôi và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.