Phát triển công nghệ thông tin: Bước đột phá giúp nông dân tiếp cận thị trường
Khâu nào cũng yếu
89% số hộ kinh doanh ở nông thôn không biết hoặc ít am hiểu về Luật Doanh nghiệp là một thực tế đáng buồn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến 90% hàng nông sản của Việt Nam phải xuất qua đường tiểu ngạch hoặc qua trung gian. Ngay cả các doanh nghiệp cũng rất “lười” cập nhật thông tin nên luôn bị động trước những diễn biến phức tạp của thị trường. Bên cạnh đó, công tác dự báo thị trường và hệ thống khuyến nông – phương tiện giúp nông dân và doanh nghiệp tiếp cận với thông tin thị trường một cách hiệu quả và thiết thực lại đang hoạt động yếu ớt, chậm và thiếu chính xác. Do công tác dự báo thị trường yếu nên thời gian gần đây, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều có biến động lớn về giá. Không ít quyết định được đưa ra vì “cảm thấy thế” chứ không dựa trên số liệu thực tế nên hoạt động sản xuất của phần lớn các loại nông sản luôn phải “theo đuôi” thị trường.
Trở lại với công tác thị trường năm 2004, các nhà nhập khẩu phân bón “oằn mình” chịu lỗ hơn 100 tỷ đồng mà nông dân vẫn phải mua giá cao vì chẳng cơ quan nào để ý đến khuyến cáo của Hiệp hội Phân bón Việt Nam là không nên nhập dự trữ phân. Ngành thép cũng từng chịu hậu quả nặng nề của việc dự đoán thị trường chậm và thiếu chính xác. Do không dự báo được biến động giá phôi thép trên thị trường thế giới nên nhiều công ty cán thép đã ký hợp đồng nhập khẩu một lượng lớn phôi tại thời điểm giá cao và gặp nhiều khó khăn khi phôi rớt giá.
Hệ thống khuyến nông hiện chỉ đáp ứng cho bà con nhu cầu thông tin về tiến bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Thiết nghĩ, để CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, khuyến nông không chỉ làm vai trò chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mà còn là một cầu nối giúp nông dân tiếp cận nhanh với thông tin thị trường để họ chủ động hơn trong sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên, có một nghịch lý là hệ thống văn bản pháp quy đang “kìm chân” vai trò của khuyến nông trong thời kỳ mới, bởi có những nghị định, thông tư... ban hành từ những năm 1990, nay không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi. Vì thế, dù muốn mở rộng hoạt động thì khuyến nông vẫn chưa đủ thẩm quyền vì sợ “lấn sân”.
Vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp (HHDN) cũng chưa thể hiện rõ trong việc giúp doanh nghiệp tiếp cận thông tin thị trường. Cả nước có 70 HHDN nhưng việc hỗ trợ, bảo vệ hội viên gần như không có hiệu quả, khả năng cung cấp thông tin thương mại, dự báo thị trường của các hiệp hội còn kém. Có tới 90% hiệp hội đã xây dựng trang web nhưng phần lớn thông tin rất nghèo nàn, chưa cập nhật.
Khi nông dân “nối mạng”
Trong khi không thể trông chờ vào hệ thống dự báo, phân tích thị trường còn yếu và chậm chạp, một số nông dân có chung sở thích, ngành nghề kinh doanh đã liên kết với nhau để tìm hiểu thông tin thị trường, kinh nghiệm sản xuất, từ đó hỗ trợ nhau tiêu thụ sản phẩm. Nhờ cách này, Hội nghề cá xã Bình Dương (Gia Bình - Bắc Ninh) đã ký được hợp đồng tiêu thụ hàng ổn định với số lượng lớn. Hội đang tiến hành nuôi thử nghiệm một số loại thủy đặc sản để tiến tới một thị trường xa hơn là xuất khẩu bởi đã có rất nhiều lời đề nghị hợp tác từ phía các công ty kinh doanh thuỷ sản. Các chủ trang trại ở thị trấn Yên Mỹ (Hưng Yên) cùng nhau lập CLB Chăn nuôi để nâng cao kiến thức, kinh nghiệm chăn nuôi và quan trọng hơn, cùng tìm kiếm thông tin thị trường. Anh Đỗ Văn Chuyên (thị trấn Yên Mỹ) cho biết, hiện đã có 3-4 lò mổ trong và ngoài tỉnh thường xuyên đặt hàng với các thành viên, họ cũng không ngại không đủ nguồn hàng khi tìm được những hợp đồng lớn; giá cả được cập nhật thường xuyên nên rất chủ động trong khâu chăm sóc, đảm bảo vẫn có lãi khi biến động giá. “Trong sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường, những nông dân có tiềm lực nên liên kết với nhau để có đủ bản lĩnh đối phó với những thất thường của thị trường” – anh Chuyên nói.
Nhờ “nối mạng”, nhiều người dân xã Bát Tràng (Gia Lâm – Hà Nội) đã ký được hợp đồng xuất khẩu gốm trị giá hàng trăm triệu USD. Hầu hết các doanh nghiệp của làng nghề này đã xây dựng được trang web, thường xuyên cập nhật những mặt hàng mới. Nông dân xã Tân Phú Trung (huyện Củ Chi – TP. Hồ Chí Minh) không chỉ đi đầu về trồng rau an toàn mà còn mạnh dạn rao bán rau trên mạng, bước đầu đã ký được hợp đồng xuất khẩu sang Nhật. Xã Quỳnh Lương (Quỳnh Lưu - Nghệ An) cũng lập web về rau an toàn, bước đầu cho kết quả khả quan. Còn ở An Giang, một số nông dân đã tự bỏ kinh phí xây dựng trang web giới thiệu những loại trái cây đặc sản của địa phương, ký được hợp đồng qua mạng. Họ cũng tìm hiểu qua “mạng” những công nghệ mới để từng bước đổi mới giống cây trồng, đưa những giống mới vào sản xuất. Nhờ đó, phần lớn diện tích cây ăn quả của An Giang đều là cây ăn quả đặc sản, chuyên canh, hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, những mô hình như trên vẫn chưa nhiều, người nông dân vẫn tự mình ứng phó với những biến động của thị trường.
Công nghệ thông tin sẽ tạo bước nhảy vọt?
Những điển hình trên cho thấy công nghệ - thông tin có thể thay đổi được diện mạo của mỗi địa phương nếu biết áp dụng những tiện ích của nó trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đây là do người dân tự thấy có nhu cầu nên tự tìm đến với mạng thông tin toàn cầu, còn những chương trình tốn hàng tỷ đồng của Nhà nước (xây dựng trang web ở các địa phương) chỉ có nội dung sơ sài, xa rời với nhu cầu thực tế của nhân dân. Nhà nước chưa tạo ra được những “chợ” thông tin, trong đó có đầy đủ các lĩnh vực luật pháp, thể chế, chính sách của Nhà nước, các kiến thức về khoa học kỹ thuật, thông tin thị trường... Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta phải có hệ thống luật pháp giúp nền hành chính minh bạch hơn, tiến tới hoàn thiện Chính phủ điện tử, Luật Thương mại điện tử... Lúc đó công nghệ thông tin sẽ tạo bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế - xã hội.
Được biết, Ấn Độ có nhiều nỗ lực giúp đỡ những vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh ứng dụng công nghệ thông tin. Tại làng Sapalpur ở miền Đông Bắc Ấn Độ, trong các cuộc họp làng hàng tuần, người ta cung cấp cho nhau thông tin đã diễn ra và thảo luận các vấn đề nóng. Các tin tức về làng đều được đưa lên mạng Internet. Họ còn gặp gỡ và trao đổi kinh nghiệm sản xuất với người làng khác qua mạng. Người Ấn Độ gọi đây là “cuộc họp điện tử”. Mục tiêu của chương trình này còn nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh của người dân thông qua việc tiếp cận thông tin thị trường, nhu cầu xã hội, kinh nghiệm sản xuất... Chẳng hạn, chỉ cần vài giờ sau khi bán hàng, nông dân có thể kiểm tra ở chợ khác để lần sau chọn nơi bán hàng với giá cao hơn. Chính phủ Ấn Độ đã có những bước đi táo bạo như kết nối hệ thống máy tính nông thôn với mạng Internet bằng tần số băng thông rộng qua vệ tinh; đường truyền không dây và hoà mạng không dây cho tất cả các làng. Dù chi phí ban đầu tốn kém nhưng hiệu quả kinh tế mang lại rất cao.
Ở nước ta, hàng năm ngân sách Nhà nước phải dành hàng chục tỷ đồng cho mỗi tỉnh để triển khai những ứng dụng công nghệ thông tin, chưa kể nhiều nguồn dự án hỗ trợ khác nhau nhưng vẫn rất manh mún, nhỏ lẻ. Nghĩa là không phải chúng ta thiếu vốn đầu tư, cái chính là phải chọn cho đúng những ứng dụng công nghệ thông tin thiết thực cho nhu cầu phát triển.
Ông Nguyễn Mậu Lân , Trưởng ban Phát triển Bưu chính viễn thông nông thôn, (Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam):Các trang web địa phương mới chỉ giới thiệu tiềm năng
Với nhiều nước, phát triển công nghệ thông tin về nông thôn là cách giúp người nông dân tiếp cận với thông tin thị trường một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Chúng ta cũng có thể làm theo hướng này nhưng hiện nay việc quan trọng là phải cải tổ hoạt động thương mại điện tử, giao dịch điện tử. Các nhà quản lý, giới truyền thông vẫn lơ sợ nông dân chưa đủ trình độ để tiếp cận Internet nhưng thực tế họ đã ứng dụng được rất nhiều vào việc tiếp cận thông tin thị trường, buôn bán nông sản bởi nhu cầu và khả năng tìm hiểu của mọi người là như nhau. Có một nghịch lý là chúng ta đã đầu tư nhiều rất tốn kém nhưng hiệu quả không được như mong muốn bởi các trang web mới chỉ dừng lại ở giới thiệu tiềm năng, chưa cập nhật thông tin, có website nội dung “mới” nhất cũng được cập nhật từ 2 năm trước.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số 51 (485), 19/12/2005








