Phát triển các đô thị vệ tinh của thủ đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa
1. Lý thuyết trung tâm của Christaller về sự hình thành các đô thị
Năm 1933, W. Christaller - nhà khoa học người Mỹ đã đưa ra lý thuyết về sự hình thành các đô thị mới với tên gọi là lý thuyết trung tâm (Central place theory). Giả định thứ nhấtcủa lý thuyết trung tâm là trong một vùng có sự phân bố dân số đều, không có sự trao đổi hàng hóa với bên ngoài, lượng cầu về các loại hàng hóa của các nhóm dân cư giống nhau, các yếu tố đầu vào của sản xuất có sẵn ở mọi vị trí trong vùng với giá như nhau. Từ giả định trên lý thuyết trung tâm đưa ra kết luận là sẽ có một thành phố mọc lên ở trung tâm vùng, ngoài ra có thể có nhiều thành phố nhỏ hơn phân bố đều trong vùng. Số lượng, quy mô thành phố nhỏ phụ thuộc vào phạm vi và quy mô thị trường, tính đa dạng của hàng hóa, cầu bình quân đầu người đối với từng loại hàng hóa, cầu bình quân đầu người đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ và khả năng cung cấp hàng hóa dịch vụ có hiệu quả của các tổ chức cung cấp. Cuối cùng là hình thành hệ thống thành phố có thứ bậc khác nhau. Giả định thứ haicủa lý thuyết trung tâm là không có một nông thôn nào lại không chịu sự ảnh hưởng của thành phố, từ đó đi đến kết luận các điểm để phát triển đô thị mới là vùng nông thôn còn trống vắng đô thị và vùng đó phải có sự ảnh hưởng của đô thị hiện có.
Theo lý thuyết trung tâm, thành phố có quy mô lớn nhất sẽ hình thành ở trung tâm của vùng do sự lựa chọn vị trí trung tâm của một số công ty có khả năng cung cấp hàng hóa dịch vụ của mình một cách có hiệu quả cho dân cư toàn vùng. Các công ty khác (với các hàng hóa dịch vụ khác nhau) có hiệu quả kinh tế nhờ quy mô nhỏ hơn và chỉ có thể cung cấp hàng hóa dịch vụ của mình cho một phần dân cư trong vùng lựa chọn vị trí phân bố đều trong vùng. Sự lựa chọn vị trí của các hãng tạo thành hệ thống các thành phố nhỏ như những thành phố vệ tinh của thành phố lớn.
Trong vùng, số thành phố lớn không nhiều, mà chủ yếu là các thành phố nhỏ vì xét về mặt không gian thì mỗi vùng chỉ có một trung tâm là định hướng trong việc xây dựng hệ thống đô thị trong vùng. Trong quá trình hình thành đô thị mới cần tính đến hai yếu tố: ảnh hưởng của đô thị hiện có và việc lựa chọn vị trí của các tổ chức, doanh nghiệp.
2. Vận dụng lý thuyết trung tâm xác định vị trí các đô thị vệ tinh của Hà Nội
Hà Nội được phân chia thành 5 vùng theo đặc điểm địa hình: 1) Phía Tây: vùng núi Ba Vì Sơn Tây đỉnh cao nhất là đỉnh Vua 1270 m, tiếp theo là đỉnh Tản Viên 1.227m, đỉnh Ngọc Hoa 1.131m; 2) Phía Bắc: Mê linh - Đông Anh - Sóc Sơn vùng đồi núi thấp và trung bình ở phía bắc Hà Nội có dãy Sóc Sơn với đỉnh cao 462m (đỉnh Chân Chim); 3) Phía Đông: Từ Phúc Thọ tới Hà Đông - vùng đồi thấp và đồng bằng (Phúc Thọ, Đan Phượng, Thạch Thất, Quốc Oai, Hoài Đức, Chương Mỹ, Từ Liêm, Hà Đông); 3) Phía nam: Vùng đồng bằng bao gồm Thường Tín, Phú Xuyên, Thanh Trì; 5) Trung tâm Thành phố.
Trên mỗi vùng của Hà Nội (không kể trung tâm thành phố) sẽ có một đô thị vừa và một số đô thị nhỏ. Mô hình phát triển đô thị của thủ đô Hà Nội sẽ là mô hình đa cực với một đô thị hạt nhân và các đô thị vệ tinh. Đô thị hạt nhân sẽ là phần Hà Nội cũ và quận Hà Đông. Các đô thị vệ tinh sẽ được xác định trên cơ sở đánh giá thực trạng, tiềm năng các đô thị hiện có ở các vùng, bao gồm các đô thị Sơn Tây, Hòa Lạc, Xuân Mai, Sóc Sơn, Mê Linh, Thường Tín, Phú Minh, Phú Xuyên, và các thị trấn của các huyện.
Những nhân tố tác động đến quá trình phát triển các đô thị vệ tinh của Hà Nội
Vị trí địa lý thuận lơi: Lịch sử hình thành và phát triển đô thị trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho thấy vị trí địa lý có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và chức năng cơ bản của mỗi đô thị. Đồng thời, quá trình đô thị hóa sẽ khai thác lợi thế vị trí địa lý nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế đô thị và an ninh quốc phòng.
Các đô thị vệ tinh của Hà Nội có vị trí ở các cửa ngõ của Thủ đô, có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh quốc phòng. Về kinh tế, khoảng cách giữa các đô thị vệ tinh và thành phố trung tâm không quá 60km, cơ sở hạ tầng giao thông kết nối với thành phố trung tâm tương đối tốt là điều kiện để giao lưu kinh tế rất thuận lợi.
Tài nguyên đất dồi dào: Đất đai là tài nguyên quý giá, quy mô diện tích đất đai rộng lớn là điều kiện để quá trình đô thị hóa thuận lợi. Đối với các đô thị có quy mô diện tích đất đai rộng lớn, việc mở rộng diện tích nội thành chỉ là thay đổi mục đích sử dụng đất mà thực chất là chuyển một phần đất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đất ở… Quá trình này góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất nói chung nhưng cũng gây ra nhiều vấn đề xã hội như lao động việc làm cho những người bị thu hồi đất nông nghiệp, sự đe dọa về an ninh lương thực… Hà Nội sau khi mở rộng với diện tích đất tự nhiên 3344,6km 2trong đó đất nông - lâm - thủy sản chiếm 56,6% đó là điều kiện thuận lợi để đô thị hóa theo chiều rộng. Tuy nhiên diện tích đó không phải ở khu vực Hà Nội cũ mà tập trung chủ yếu ở khu vực các huyện Mê Linh, Thạch Thất, Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thường Tín, Quốc Oai, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Ba Vì. Điều đó tạo thuận lợi cho các đô thị vệ tinh phát triển theo chiều rộng (Xem biểu 1).
Biểu 1: Tỷ lệ đất phi nông nghiệp tại các quận, huyện của Hà Nội năm 2009
Số quận, huyện | Tỷ lệ đất phi nông nghiệp (%) |
6 quận: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Cầu Giấy, Thanh Xuân | Từ 90% đến 99% |
3 quận: Hà Đông, Long Biên, Hoàng Mai | Từ 60% đến 70% |
9 quận, huyện: Tây Hồ, Sơn Tây, Từ Liêm, Thạch Thất, Hoài Đức, Đông Anh, Thanh Trì, Đan Phượng, Gia Lâm | Từ 40% đến 50% |
9 huyện: Mê Linh, Phúc Thọ, Thường Tín, Quốc Oai, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Ba Vì | Từ 30% đến 40% |
2 huyện: Ứng Hòa, Thanh Oai | Dưới 30% |
Tính chung cho toàn thành phố | 40,27% |
Nguồn: Tác giả tính từ Niên giám Thống kê Hà Nội 2009
Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn: Các nhân tố tài nguyên khoáng sản có tác động trực tiếp đến quá trình đô thị hóa. Chức năng của đô thị là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành phần lớn phụ thuộc vào điều kiện tài nguyên của đô thị hoặc vùng. Tài nguyên khoáng sản của các đô thị vệ tinh của Hà Nội có than, đá, quặng kim loại song trữ lượng không đáng kể. Giá trị khai thác năm 2009 là 1776 tỷ đồng (giá thực tế) chiếm 0,85% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp.
Tài nguyên nước phong phú:nguồn nước là điều kiện để kinh tế đô thị phát triển. Nguồn nước mặt và nước ngầm nói chung của Hà Nội được đánh giá là rất phong phú đủ điều kiện để phát triển sản xuất nước sạch. Ngoài thành phố Sơn Tây được Chính phủ đầu tư xây dựng nhà máy nước sạch do Đan Mạch tài trợ với số vốn đầu tư 60 tỷ đồng, công suất 20 nghìn m 3/ngày đêm, bảo đảm cung cấp đủ nước sạch cho đời sống và sản xuất ở đô thị vệ tinh khác chưa đáp ứng đầy đủ. Khu vực ngoại thành, số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh chiếm tỷ lệ còn thấp 42,4%.
Trình độ phát triển kinh tế ở mức thấp: Trình độ phát triển kinh tế trong đó phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ là yếu tố có tính quyết định của quá trình đô thị hóa. Tại các đô thị vệ tinh của Hà Nội, sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Trong đó, Sơn Tây là đô thị có bề dày lịch sử và có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp và dịch vụ. Nhưng quá trình đô thị hóa của đô thị Sơn Tây diễn ra chậm, dân số của Sơn Tây năm 2000 là 110,8 nghìn người, năm 2005 là 119,5 nghìn người, tốc độ phát triển kinh tế 8-10%/năm, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 43,2% GDP thương mại- dịch vụ có những thế mạnh nhưng chỉ chiếm 36% GDP, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn chiếm 20,7% GDP.
Cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém:Trong các đô thị vệ tinh, cơ sở hạ tầng cấp nước còn rất nhỏ bé, đối tượng phục vụ chỉ là dân cư ở thị xã thị trấn và chưa đáp ứng đủ yêu cầu nước sạch cho đời sống và sản xuất khi đô thị mở rộng. Hệ thống điện lưới, các trạm biến thế chỉ đáp ứng nhu cầu hiện tại, chủ yếu cho đời sống không đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất công nghiệp. Dịch vụ nhà ở cho người lao động, tài chính, ngân hàng không phát triển.
Trình độ kết nối giao thông tốt: Hạ tầng giao thông bao gồm hệ thống đường bộ đường sắt, đường thủy, đường không trong nội bộ đô thị và hệ thống kết nối với bên ngoài. Hiệu quả hoạt động của đô thị và vai trò lan tỏa của đô thị được phát huy khi hệ thống giao thông nội đô và sự kết nối với bên ngoài hợp lý đáp ứng được các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của bản thân đô thị. Thực trạng kết nối giữa thành phố trung tâm và các đô thị vệ tinh của Hà Nội là tương đối tốt.
Truyền thống văn hóa mang nặng tính làng xã: Mỗi đô thị vệ tinh của Hà Nội có một đặc điểm văn hóa riêng song nhìn chung các đô thị chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa làng xã. Từ đô thị Sơn Tây hình thành từ hàng trăm năm nay nhưng với làng Đường Lâm, với các lễ hội mang tính truyền thống đến những đô thị mới như Hòa Lạc, Xuân Mai, Mê Linh, Sóc Sơn con người quan hệ tình làng nhiều hơn là xã hội. Đặc điểm văn hóa đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội nói chung và đô thị hóa nói riêng.
Chủ trương, chính sách đúng: Các chủ trương, chính sách có ảnh hưởng rất mạnh đến sự phát triển kinh tế cũng như quá trình đô thị hóa. thành phố Hà Nội có chủ trương phát triển các đô thị vệ tinh thể hiện trong hệ thống quy hoạch tương đối đầy đủ và đồng bộ. Chức năng của các đô thị vệ tinh đã được xác định rõ: Đô thị Hòa Lạc (phía Tây) với chức năng công nghệ cao, giáo dục đào tạo, y tế chuyên sâu, công viên, du lịch và nghĩa trang. Đô thị Sóc Sơn, Mê Linh (phía Bắc) với chức năng tiếp vận phân phối hàng hóa, dịch vụ sân bay và du lịch sinh thái. Đô thị Phú Minh, Phú Xuyên (phía Nam) với chức năng chính là công nghiệp và tiếp vận, phân phối hàng hóa từ các tỉnh phía Nam .
3. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình đô thị hóa của các đô thị vệ tinh
Tại các đô thị vệ tinh mật độ dân số thấp dưới mức trung bình toàn thành phố, tỷ lệ dân số đô thị tại các đô thị vệ tinh nói chung là rất thấp (trừ thị xã Sơn Tây) (Xem biểu 2).
Biểu 2: Diện tích, dân số trung bình của Hà Nội và một số đô thị vệ tinh năm 2009
STT | Tên | Diện tích (km 2) | Dân số (1000 người) | Tỷ lệ DS thành thị (%) | Mật độ DS (1000 ng/km 2) |
Toàn thành | 3344,6 | 6472,2 | 42,33 | 1955 | |
Trong đó: | |||||
1 | Sóc Sơn | 306,51 | 285,1 | 1,37 | 930 |
2 | Mê Linh | 142,26 | 193 | 12,59 | 1357 |
3 | Sơn Tây | 113,53 | 126 | 53,41 | 1110 |
4 | Chương Mỹ | 232,41 | 289,7 | 12,70 | 1247 |
5 | Thường Tín | 127,39 | 220,7 | 3,08 | 1732 |
6 | Phú Xuyên | 171,1 | 181,6 | 8,15 | 1061 |
Nguồn: Niên giám Thống kế Hà Nội 2009
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là nội lực kinh tế kém, công nghiệp chưa phát triển, đời sống thu nhập của người dân thấp; Lao động nông nghiệp là chủ yếu, trình độ dân trí thấp, văn hóa mang nặng tính làng xã; Cơ sở hạ tầng yếu kém; Hệ thống biến thế, đường dây tải điện với công suất hạn chế không thể đáp ứng nhu cầu mở rộng đô thị, hệ thống đường nội thị nhỏ hẹp. Hệ thống cấp nước sạch chỉ đủ cho sinh hoạt của dân cư. Nhiều nhà đầu tư đã đến nghiên cứu đầu tư tại các đô thị như Mê Linh, Sóc Sơn… vì cũng có nhiều ưu đãi nhưng với những câu hỏi về nguồn nước sạch, nguồn điện cho sản xuất cho dự án thì chính quyền địa phương không giải đáp được.
4. Một số giải pháp phát triển các đô thị vệ tinh của Hà Nội trong quá trình đô thị hóa
4.1. Định hướng cho quá trình đô thị hóa
Định hướng phát triển đô thị thể hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là nhân tố quan trọng số 1 trong giai đoạn hiện nay. Hà Nội với 5 đô thị vệ tinh là Hòa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Minh- Phú Xuyên và Sóc Sơn cần phát triển theo hướng kết nối với trung tâm bằng cách hình thành chuỗi hoặc chùm đô thị: Trên trục đường 32 phát triển chuỗi Sơn Tây - Phúc Thọ - thị trấn Phùng - Trạm Trôi - Cầu Giấy; Trên trục đường 21 Sơn Tây - Hòa Lạc Miếu Môn; Trên trục đường Xuân Mai - Chúc Sơn - Hà Đông; chuỗi Sơn Tây - Hòa Lạc - Trung tâm Hội nghị Quốc gia; Trên trục đường 1: Văn Điển - Thường Tín - Phú Minh - Phú Xuyên; Gia Lâm - Đông Anh - Mê Linh - Sóc Sơn tạo thành một chùm đô thị.
4.2. Hiện đại hóa và phát triển cơ sở hạ tầng
Hiện đai hóa, nâng cao trình độ CSHT trong đó đặc biệt coi trọng cấp nước sạch và cấp điện và coi đó là khâu đột phá trong quá trình. Phát triển CSHT là nâng cao năng lực của đô thị, nâng cao sức cạnh tranh của đô thị, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư. Ưu tiên hình thành các khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ về cơ sở hạ tầng. Trọng tâm của quá trình đô thị hóa là phát triển cơ sở hạ tầng để phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất. Coi vấn đề phát triển CSHT nông thôn là một nội dung quan trọng trong quá trình đô thị hóa.
4.3. Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả quỹ đất
Các đô thị vệ tinh có điều kiện mở rộng nội thị nhờ quỹ đất dồi dào tuy nhiên vẫn cần phải tiết kiệm đất. Với tầm nhìn dài hạn, việc sử dụng đất cần theo đúng quy hoạch. Để kiểm soát được việc sử dụng đất, quy hoạch sử dụng đất cần công khai, minh bạch, phổ biến quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng rộng rãi; Đẩy mạnh các hình thức, biện pháp kinh tế để nâng cao hiệu quả sử dụng đất như đấu giá quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất…
4.4. lập và thực hiện quy hoạch đồng bộ
Cách thành phố vệ tinh cần có quy hoạch đồng bộ bao gồm: Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch các ngành, các cấp (từ thành phố đến quận, huyện) quy hoạch xây dựng (quy hoạch chung và chi tiết). Chất lượng quy hoạch càn được quan tâm nhiều hơn nữa.
Các quy hoạch phải được thực hiện nghiêm túc: Về mặt pháp luật, quy hoạch đô thị được thực hiện thông qua các quy định của nhà nước, trên thực tế, các quy định pháp luật còn bị buông lỏng, một số quy hoạch không được thực hiện hoặc không thể thực hiện.
4.5. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, trọng tâm là phát triển công nghiệp
Để có sức sống, các đô thị vệ tinh phải được đầu tư các khu công nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, Hà Nội hoàn toàn có thể sử dụng các đòn bảy kinh tế, chính sách đất đai để thu hút các dự án công nghiệp vào các thành phố vệ tinh. Để phát triển kinh tế cần xác định cho mình phương hướng, tốc độ và các ngành kinh tế công nghiệp chủ lực nhằm khai thác có hiệu quả cao đối với thế mạnh và các nguồn lực của đô thị. Tăng cường công tác quản lý quy hoạch cần bắt đầu từ việc rà soát, điều chỉnh và thực hiện tốt ngay từ việc lập đến thực thi quy hoạch.
4.6. Huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư cho đô thị hóa
Các đô thị vệ tinh cần đề xuất phương án huy động vốn cho từng giai đoạn, sắp xếp lựa chọn các dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư, phân kỳ đầu tư hợp lý và có những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm thu hút vốn đầu tư, bảo đảm thực hiện được các mục tiêu đề ra.
Đối với nguồn vốn ngân sách: ngoài các nguồn vốn đầu tư cho các dự án của Thành phố trên địa bàn, các đô thị sử dụng nguồn vốn ngân sách cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, trong đó có các công trình giao thông, thủy lợi và cấp nước sinh hoạt, mở rộng và nâng cấp mạng lưới giao thông, lưới điện.
Trong khuôn khổ của pháp luật về đất đai, cần vận dụng linh hoạt để huy động tối đa nguồn vốn từ quỹ đất cho phát triển đô thị, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.
Đối với các nguồn vốn bên ngoài: tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, đồng thời tranh thủ các nguồn vốn ODA để đầu tư cho các chương trình, dự án trọng điểm, ưu tiên cho phát triển giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, hạ tầng nông thôn, xã nghèo, vùng khó khăn.
Vận dụng các cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi, động viên, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vốn phát triển kinh tế, kinh doanh trên địa bàn nông thôn;
Đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, ý tế, văn hóa-thông tin, thể dục-thể thao, nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển các lĩnh vực này.
4.7. Hoàn thiện cơ chế quản lý
Trong quá trình đô thị hóa, do tính chất chuyển đổi xã hội từ xã thành phường, do yêu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng lớn nên các vấn đề phát sinh nhiều và phức tạp. Vì vậy, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội tại các đô thị vệ tinh luôn luôn xuất hiện vấn đề mới. Trong khi đó, bộ máy quản lý nhà nước mới được thành lập trong thời gian ngắn. Từ những vấn đề trên, việc hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trên địa bàn các đô thị này là rất cần thiết và cấp bách.
4.8. Quản lý đất đai và nhà ở cần nhanh chóng đi vào thế ổn định
Hiện nay quy mô các đô thị vệ tinh của Hà Nội còn nhỏ, song đã có nhiều vướng mắc trong việc quản lý đất đai và nhà ở do quá khứ để lại, do chuyển đổi cơ chế, do chính sách chưa nhất quán.. công tác quản lý đất đai và nhà ở đô thị cần nhanh chóng đi vào thế ổn định. Trước mắt cần nhanh cóng hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho những các nhân, gia đình đang sử dụng đất hợp pháp. Nhà quản lý cần thay đổi tư duy về vấn đề này, cần xác định quan điểm rằng cấp sổ đỏ cho họ là để quản lý đất đai mà họ đang sử dụng chứ không phải là ban cho họ bổng lộc gì.
Hoàn thiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng là một nội dung của quản lý đất đai là cơ sở để giảm chi phí cho các dự án nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Tiến độ giải phóng mặt bằng có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ của dự án, nếu giải phóng mặt bằng chậm có thể gây thiệt hại lớn về tài chính cho dự án.
4.9. Phát triển nguồn nhân lực
Hiện tại chất lượng nguồn lao động, kể cả lao động quản lý và lao động trực tiếp của các đô thị vệ tinh của Hà Nội còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Để có nguồn lao động đáp ứng các yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cần:
- Nâng cao trình độ học vấn, trình độ dân trí và mở rộng đào tạo nghề cho người lao động. Nhanh chóng đào tạo cán bộ quản lý trong các cơ quan của đô thị, đào tạo đội ngũ các chuyển gia tư vấn chính sách và chuyên gia kinh tế. Có chính sách thích đáng để thu hút nhân lực khoa học - công nghệ đến làm việc tại đô thị.
- Triệt để thực hiện chủ trương xã hội hóa trong đào tạo nghề, cần đề cao vai trò của trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm; phát triển hình thức đào tạo nghề tại chỗ, vừa học vừa làm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
- Tăng cường đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước cấp huyện và cấp xã. Việc bồi dưỡng các kiến thức cần thiết cho đội ngũ cán bộ cấp xã, thị trấn (bao gồm cả đội ngũ kế cận) cần được coi là khâu then chốt.
- Thực hiện liên kết đào tạo với các trường đại học va cao đẳng; cử người đi học nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý; Thực hiện chính sách cử, gửi người địa phương đi học, có tài trợ, khuyến khích.
- Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, thu hút doanh nghiệp vào đầu tư để tăng khả năng thu hút lao động trên địa bàn đô thị; Cần tạo điều kiện phát triển nhanh TM-DV, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng… để thu hút đông đảo lực lượng lao động.
- Khuyến khích người lao động nâng cao trình độ bằng cách tạo điều kiện cho người lao động tham các lớp đào tạo, khuyến khích bằng chế độ tiền lương, tiền thưởng, sử dụng và đề bạt cán bộ hợp lý. Đây là những động lực khuyến khích người lao động chủ động nâng cao trình độ.
4.10. Tạo việc làm cho người lao động
Tạo việc làm cho người lao động, thực hiện chủ trương "ly nông bất ly hương" là phát triển kinh tế trên địa bàn theo hướng bền vững. Để tạo việc làm cần tổ chức nghiên cứu theo 3 hướng: (1) nghiên cứu hình thành các mô hình sản xuất kinh doanh mới thu hút lao động nông nhàn và chuyển dần một phần lao động nông nghiệp sang hoạt động công nghiệp và thương mại. (2) Tăng cường công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, hạn chế tính thời vụ, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. (3) mở rộng quy mô sản xuất các ngành hiện có.
Tăng cường công tác đào tạo và chuyển đổi nghề cho nông dân là điều kiện để hình thành các mô hình sản xuất kinh doanh mới, đặc biệt là chú trọng các mô hình thương mại dịch vụ.
Tài liệu tham khảo:
1. Jica, (2002), Định hướng Quy hoạch Tổng thể phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2020.
2. Nhiêu Hội Lâm (2004), Kinh tế đô thị, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Lê Du Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa, (2002), ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Tổng cục Thống kê (từ 1975 đến 2007) Niên giám thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội.
5 Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị: những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
6 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam (2008), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số: 490/QĐ-TTg ngày 05 tháng 5 năm 2008 Về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, http://www.na.gov.vn
7. tình hình kinh tế Hà Nội năm 2010, http://www.hanoi.gov.vn
8. UBND thành phố Hà Nội, Văn bản góp ý cho "Quy hoạch phát triển GTVT thủ đô Hà Nội đến năm 2020" của UBND thành phố Hà Nội gửi Bộ GT-VT, http://.hinet.net.vn/news_detail.pho?id=3208
9. UBND thành phố Hà Nội, Quyết định số 05/2008 - QĐUB về việc tiếp tục áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội (mới) các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế chính sách do UBND thành phố Hà Nội (cũ) và UBND tỉnh Hà Tây, UBND tỉnh Vĩnh Phúc, UBND tỉnh Hòa Bình đã ban hành trước ngày 1/8/2008 http://www.hanoi.gov.vn








