Phát huy tính đặc thù của bản sắc văn hóa trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền Trung
1. Cùng với kinh tế và chính trị, văn hóa là một trong ba lĩnh vực quan trọng mà không một quốc gia nào không quan tâm. Nếu như làm một lớp cắt dọc thì không có xã hội nào, con người nào lại không thể hiện mình ở nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Để thỏa mãn nhu cầu vật chất thì mỗi cộng đồng, mỗi con người cần phải tăng cường kinh tế để làm ra nhiều của cải vật chất cho xã hội; để thỏa mãn nhu cầu tinh thần thì con người, xã hội phải phát triển văn hóa, sáng tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa cho xã hội. Chính vì vậy mà Tổng bí thư Nông Đức Mạnh xem văn hóa và kinh tế là hai chân của sự phát triển, chúng ta không thể đi chân ngắn chân dài, chân cao chân thấp… Kinh tế là nền tảng vật chất và văn hóa là nền tảng tinh thần. Chính vì vậy mà văn hóa và kinh tế là 2 lĩnh vực có vai trò quan trọng và quyết địnhtrong mọi quá trình phát triển.
Tuy nhiên, sự quan trọng và quyết định đó lại không hoàn toàn giống nhau bởi sản phẩm của kinh tế và văn hóa rất khác nhau. Đối với lĩnh vực kinh tế, chúng ta có thể so sánh cao hay thấpnhưng đối với văn hóa thì hoàn toàn không phải như vậy. Nói văn hóa là nói đến sự khác nhauchứ không thể gọi văn hóa cao hay thấp. Từ đó cho thấy kinh tế tăng trưởng gắn với việc hình thành các nền văn minh và có tính phổ biến trong khi đó văn hóa luôn có tính đặc thù. Trong triết học, cái phổ biến và cái đặc thù có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động với nhau dẫn đến sự biến đổi và phát triển. Một nhà triết học người Pháp ví von mối quan hệ này rất hay: kinh tế và văn hóa không giống như hai người đàn bà cùng thuê chung một căn hộ. Giáo sư Frăngcoi Proux của UNESCO thì xem chìa khóa của sự phát triển không nằm trong kinh tế, cũng không nằm trong văn hóa mà nằm ở sự tương tác giữa kinh tế và văn hóa.
Như vậy trong quan niệm hiện đại, vấn đề phát triển và lựa chọn các mô hình phát triển không còn bị đóng khung trong tư duy về kinh tế, không xem tăng trưởng kinh tế là chìa khóa vạn năng, là thước đo duy nhất để nói đến sự phát triển. Khi UNESCO phát động "Thập kỷ phát triển văn hóa" (1988 - 1997), các nhà nghiên cứu đã khuyến cáo các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển cần phải đưa văn hóa vào trung tâm của sự phát triển. Cụ thể hơn là các mô hình phát triển, các chương trình kế hoạch phát triển cần bắt rễ trong văn hóa, xem văn hóa như là yếu tố nội sinh, vừa là động lực và mục tiêu của sự phát triển.
Mặt khác, những yếu tố bên trong có tính đặc thù của một quốc gia, dân tộc có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các mô hình phát triển đặc thù. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra vai trò to lớn của đạo Tin Lành đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng và sự phát triển của nhân loại nói chung. Ở châu Á, Nhật Bản đã biết kết hợp tinh thần (văn hóa) Nhật Bản với tư cách là yếu tố nội sinh với kỹ thuật phương Tây với tư cách là yếu tố ngoại sinh để tạo dựng được một cường quốc về kinh tế; Hàn Quốc, Đài Loan biết khai thác các giá trị của Khổng giáo để trở thành những nước phát triển. Từ các bài học kinh nghiệm này, các quốc gia cần coi trọng bản sắc văn hóa để phát triển chứ không phải máy móc nhập khẩu các mô hình phát triển xa lạ đối với các cộng đồng dân cư. Như vậy, có thể nói rằng, bản sắc văn hóa và phát huy bản sắc văn hóa là một phần không thể thiếu được trong các chiến lược phát triển kinh tế - văn hóa ở bình diện quốc gia cũng như vùng miền.
Kinh tế và văn hóa là hai lĩnh vực khác nhau, thậm chí đôi khi bị ngộ nhận là đối lập nhau nhưng sự tương tác của 2 lĩnh vực này chính là chìa khóa của sự phát triển. Điều này có nghĩa là sự phát triển bền vững không nằm gọn ở kinh tế hay văn hóa mà ở mức độ cộng sinh giữa văn hóa và kinh tế. Mặt khác, văn hóa còn có vai trò là động lực thúc đảy sự tăng trưởng kinh tế nếu như biết khai thác các giá trị văn hóa, khai thác bản sắc văn hóa của từng dân tộc, từng vùng miền.
Có thể nói rằng, bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa, những biểu hiện văn hóa đặc trưng cho nền văn hóa dân tộc để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, nó bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân tộc, thể hiện trí tuệ, tâm hồn, cốt cách của một dân tộc. Trong lễ phát động "Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa" của UNESCO, tổng giam đốc F.Mayor đã nói đến bản sắc văn hóa: Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Như vậy, mỗi dân tộc trong cộng đồng quốc gia tuy có những sắc thái văn hóa riêng, nhưng do hoàn cảnh lịch sử cũng như sự sống còn của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước quy định, nó đã tạo thành những phẩm cách chung đặc trưng cho cộng đồng dân tộc Việt Nam. Bản sắc dân tộc Việt Nambao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
2. Tư duy về mô hình phát triển trên thế giới luôn có những biến đổi, vận động bởi lẽ chính thực tiễn sinh động của đời sống xã hội đã làm thay đổi nhận thức về vai trò của các nhân tố trong phát triển, đặc biệt là vấn đề vai trò văn hóa trong thế kỷ XX. Thông qua UNESCO, Liên Hợp Quốc đã khẳng định vai trò của văn hóa với tư cách là động lực, là hệ điều tiết, là mục tiêu của mọi sự phát triển. Tuy nhiên, vấn đề này được nhìn nhận ở góc cạnh văn hóa theo nghĩa rộng, còn bản thân văn hóa, di sản văn hóa hay bản sắc văn hóa tham gia vào quá trình phát triển lại là vấn đề cần nhận diện rõ hơn.
Thật ra, vai trò của bản sắc văn hóa nằm trong tiềm năng của sự đa dạng mà không một quốc gia nào, vùng miền nào lại không tận dụng nó như một lợi thế so sánh để phát triển. Nhu cầu muốn khám phá các vùng đất mới luôn kích thích các dự án đầu tư của các tập đoàn kinh tế trên thế giới. Chính bản sắc văn hóa đã làm cho ngành kinh tế du lịch - ngành công nghiệp không khói tăng trưởng khá nhanh. Nhiều quốc gia, vùng miền, các địa phương đã thoát khỏi nghèo đói, tăng trưởng kinh tế nhanh và giàu có nhờ biết phát huy tính đặc thù của văn hóa trong hoạt động du lịch. Các quốc gia phát triển như Pháp, Italia, Anh, Nhật.. đã biết khai thác tốt các giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa của mình để phát triển. Một số quốc gia có tốc độ phát triển nhanh như Hàn Quốc, Trung Quốc, Brazin, Thái Lan… cũng tận dụng tài sản văn hóa của mình trong hoạt động kinh doanh du lịch.
Ở nước ta, các địa phương ngày càng nhận thức rõ hơn về điều này. Khi hoạch định các chính sách phát triển, các địa phương đều đã ý thức rất rõ việc khai thác các giá trị văn hóa, các yếu tố nội sinh để sự tăng trưởng không bị đứt gãy hay khập khiễng. theo đánh giá của Tạp chí Du lịch trực tuyến Smart Travel Asia, Việt Nam là quốc gia có các điểm nhấn du lịch hàng đầu ở châu Á, trong đó có 3 trong 10 địa danh của châu Ấ là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Hội An. Theo đó, trong lĩnh vực thành phố lễ hội tốt nhất, Hội An (Việt Nam) và Băngkok (Thái Lan) cùng đứng thứ 5, đứng đầu ở lĩnh vực này là đảo du lịch Bali của Indonesia. Trong lĩnh vực thành phố mua sắm tốt nhất, Hà Nội đứng thứ 6, Hồng Kông (Trung Quốc) đứng đầu bảng. Trong lĩnh vực thành phố kinh doanh tốt nhất, TP. Hồ Chí Minh cùng với Seoul (Hàn Quốc) và Đài Bắc, Đài Loan (Trung Quốc) đứng thứ 10, đứng đầu ở lĩnh vực này là Hồng Kông. Đặc biệt, trong lĩnh vực resort và khách sạn, khách sạn Sofitel Legend Metropole Hà Nội đứng thứ 2, chỉ xếp sau khách sạn Amanpuri, Phuket của Thái Lan.
Vài trò của những nhân tố phi kinh tế, đặc biệt là bản sắc văn hóa của từng vùng miền đã từng bước được minh chứng trong quá trình xây dựng các mô hình phát triển của từng địa phương mà cốt lõi là không sao chép hay máy móc nhập khẩu mô hình phát triển từ bên ngoài. Cái được gọi là "học hỏi", "học tập" chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi biết tiếp thu có chọn lọc những yếu tố ngoại sinh bởi lẽ các giá trị, các truyền thống và thị hiếu của một vùng đất mới là điều cốt lõi. Chẳng hạn, có rất nhiều tỉnh, thành trong cả nước muốn học tập cách làm của thành phố Đà Nẵng nhưng sẽ không thể thành công khi không nhận diện được truyền thống văn hóa của địa phương như là một nguyên tắc quan trọng. Tâm thức cộng đồng trong cư dân Đà Nẵng có thể không cụ thể hóa được nhưng cách nói có vẻ "nhà quê" của lãnh đạo lai làm "yên dân", sưởi ấm nguồn cuội và truyền thống của họ. Suy cho cùng, những "kỹ năng chính trị" (có người gọi là thủ đoạn chính trị) là cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu của các chính sách nhưng nếu không xuất phát, hay bắt rễ trong văn hóa thì nhất định sẽ dẫn đến sự thất bại. Trong khi đó, đô thị cổ Hôi An lại có một cách làm khác mà không phải nơi nào cũng có thể thực hiện được. Những thành công của Hội An là hình mẫu cho cách xây dựng lòng tin và sự đồng thuận giữa những nhà lãnh đạo, quản lý, giới khoa học, văn hóa và nhu cầu văn hóa của cộng đồng dân cư. Điều này cũng xuất phát từ câu chuyện văn hóa vốn rất gần gũi nhưng cũng dễ bị bỏ qua.
Các địa phương như Thừa Thiên - Huế, Khánh Hòa, Quảng Bình, Quảng Nam … cũng đạt được nhiều thành tựu trong việc sử dụng những yếu tố đặc thù của bản sắc văn hóa để phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời gian qua, các địa phương có danh hiệu di sản thế giới đã có tính đột phá trong việc phát triển kinh tế. Các di sản nâng cao tính hấp dẫn đối với du khách bởi giá trị đặc biệt của nó. Đây chính là tiền đề để phát triển kinh tế của địa phương, trước hết là ngành du lịch. Điều này cho thấy, chính vì nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao mà hoạt động kinh tế du lịch ngày càng được thúc đẩy. Nhiều chuyên gia còn nhận định rằng: du lịch Việt Namsở dĩ phát triển nhanh và hiệu quả như vậy là nhờ biết khai thác tốt đẹp của dân tộc Việt Nam . Việc triển khai năm du lịch quốc gia Quảng Nam năm 2006 với nhiều hoạt động du lịch đa dạng khai thác vốn văn hóa truyền thống và hiện đại đã đánh thức nhiều tiềm năng văn hóa ở Quảng Nam, trong đó hoạt động du lịch Hội An là một điển hình. Thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt đến 14,57% phần lớn là nhờ khai thác tốt các giá trị văn hóa trong hoạt động du lịch.
Thật ra trong hoạt động kinh tế du lịch, các di sản văn hóa không phải là tài nguyên duy nhất nhưng nếu thiếu nó thì du lịch sẽ không còn tính hấp dẫn. Khách du lịch đến Hội An không phải vì ở đây có các khu nghỉ dưỡng cao cấp (resort) mà vì sức hấp dẫn của một phố cổ độc đáo đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Các khác biệt bản sắc đóng vai trò quan trọng với tư cách là một thương hiệu làm nên tính bền vững và đa dạng văn hóa. Pháp lệnh Du lịch được công bố ngày 20-11-1999 đã xác định tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các khu, điểm du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch. Điều này hoàn toàn phù hợp bởi sự đa dạng trong nhu cầu thúc đẩy khách du lịch tìm hiểu và khám phá, tuy nhiên, xét đến cùng thì yếu tố văn hóa, sản phẩm văn hóa giữ vị trí quan trọng. Ngay cả di sản thiên nhiên như vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng được du khách quan tâm cũng không đồng nghĩa với việc nó chỉ là di sản thiên nhiên thuần túy mà cốt lõi là nó đã được con người văn hóa.
Nhận diện bản chất của du lịch trong bối cảnh hiện nay, chúng ta càng thấy rằng, sự gắn kết giữa kinh tế và văn hóa không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn chỉ ra tính thực tiễn của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế du lịch. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2005, thu nhập du lịch đạt 2,3 tỉ USD, năm 2008 đã đạt trên 4 tỉ USD, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 15,6%/năm. Nếu xét về cơ cấu doanh thu ngoại tệ trong xuất khẩu dịch vụ trong cả nước, doanh thu của ngành du lịch chiếm trên 55%, có doanh thu ngoại tệ lớn nhất, trên cả các ngành giao thông vận tải, bưu chính - viễn thông và dịch vụ tài chính. So với việc xuất khẩu dịch vụ du lịch chỉ đứng sau 4 ngành xuất khẩu hàng hóa là dầu thô, dệt may, giày da và thủy sản. Nhưng với tư cách là hoạt động "xuất khẩu tại chỗ", "xuất khẩu vô hình" thì ngành du lịch có thể đem lại kết quả kinh tế cao hơn và tạo nhiều việc làm có thu nhập cho xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà các chuyên gia du lịch nước ngoài từng tổng kết rằng, có 20% số khách du lịch quan tâm việc tìm hiểu sự khám phá sự kiện, hiện tượng văn hóa trong chuyến tham quan. Ở Việt Nam có 70% số du khách cho rằng họ đến Việt Nam vì sự hấp dẫn của văn hóa Việt Nam, muốn tìm hiểu văn hóa Việt Nam, đặc biệt là văn hóa truyền thống của các dân tộc.
Bản sắc văn hóa là một nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển mà ở đó phải được nhìn nhận không chỉ là nền tảng tinh thần tạo sự ổn định cho xã hội mà còn là động lực của sự phát triển. Thực tế cho thấy, nếu như doanh thu từ vé tham quan và dịch vụ của di tích Cố đô Huế năm 1993 chỉ ước tính vài trăm triệu đồng thì sau khi công nhận di sản thế giới lại tăng dần, đến năm 2008 là trên 78 tỷ đồng. Theo báo cáo của Ban quản lý vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) thì năm 1996 chỉ có 236.000 lượt khách, doanh thu phí tham quan chỉ đạt 1,2 tỷ đồng, thế nhưng đến năm 2008 có đến 2,6 triệu lượt khách, doanh thu phí tham quan là 86,7 tỷ đồng, tăng trên 525% so với năm 2000. Đối với Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng, qua 6 năm được công nhận di sản thế giới đã đóng góp cho ngân sách từ thu phí hằng năm là 10 tỷ đồng. Đây là con số mà trước năm 2004, Quảng Bình có phấn đấu cũng không dễ có được. Việc khai thác phát huy giá trị di sản cũng đã tạo điều kiện cho công tác phục hồi và phát triển các ngành nghề thủ công, các nghi lễ và nghệ thuật truyền thống như nghề may nhanh, làm đèn lồng ở Hội An, phụ hồi các nghi lễ truyền thống ở Huế…
Như vậy, dù muốn hay không thì mọi hoạt động kinh tế phải luôn gắn kết với văn hóa. Trong xu thế phát triển chung của nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay kinh tế du lịch - cầu nối giữa văn hóa và kinh tế đang thể hiện rất rõ vai trò của nó với tư cách là động lực của sự phát triển. Sẽ không có một sự chi tiêu trong hoạt động du lịch nào lại không gắn liền với các giá trị văn hóa.
Tất cả những thành tựu và biểu hiện sinh động của đời sống xã hội trong thời gian qua đã từng bước chứng minh cho vai trò của văn hóa đối với sự phát triển. Điều này một mặt khẳng định những hạn chế, thậm chí là sai lầm đối với những quan điểm kinh tế thuần túy, đơn thuần trước đây, mặt khác khẳng định vai trò của văn hóa không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của sự phát triển. Bàn về vấn đề này giáo sư Phạm Duy Hiển cho rằng: "chúng ta đang mong thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, và mục tiêu này thường được hiểu đồng nhất với GDP trên đầu người vượt quá 1000 - 2000 USD. Lại một biểu hiện nữa của quan điểm kinh tế đơn thuần. nhìn ra thế giới, trình độ phát triển khác nhau của các quốc gia không phải đo bằng GDP, mà bằng trình độ văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, trí tuệ và tâm thức của cộng đồng. Đương nhiên, có thực mới vực được đạo, song đồng tiền không tự nó sinh ra văn hóa để rồi văn hóa làm ra nhiều tiền hơn. Chả thế mà nhiều nước có GDP cao nhưng vẫn lạc hậu, rất nhiều người thất học, phụ nữ bị xem thường, và đây thường là mảnh đất thuận lợi cho phân hóa giàu nghèo, các nguồn lợi kinh tế chỉ tập trung vào một thiểu số giàu có. Nếu chạy theo GDP bằng mọi cách, người nghèo xác xơ, một kịch bản dường như đang xảy ra qua những vụ chiếm dụng đất đai dưới danh nghĩa các dự án phát triển như báo chí đã thường xuyên nêu lên".
![]() |
Một vấn đề nữa là khẳng định vai trò động lực của văn hóa không đồng nghĩa với việc khai thác cạn kiệt tài sản văn hóa, làm sai lệnh bản sắc văn hóa. Tình trạng "ăn xổi ở thì" đối với các di sản văn hóa ở nước ta đang là vấn đề bức xúc hiện nay khi một số địa phương, vì quá chiều chuộng "thượng đế" mà làm nghèo nàn đi tài sản văn hóa. Lễ hội, làng nghề, trang phục, âm nhạc truyền thống, tuồng, chèo, cồng chiêng, sử thi các dân tộc thiểu số… đang đứng trước nguy cơ bị biến mất khi quá trình đô thị hóa đã thay đổi cách nghĩ của các chủ thể văn hóa, đặc biệt là lớp trẻ. Khu vực miền Trung và Tây Nguyên đã tổ chức nhiều cuộc liên hoan dân ca, hát ru, đồng dao… nhưng thật khó khăn để nghe được một câu hát ru con từ người mẹ; trẻ con thì hát nhạc Hàn, nhạc Tây; một bộ phận thanh niên các dân tộc thiểu số không còn biết sử thi, không thích trang phục truyền thống… Tính thiêng của các sinh hoạt văn hóa truyền thống bị lấn át bởi tính thương mại. Không gian sinh tồn của các loại hình văn hóa truyền thống bị chia cắt bởi quá trình tái định cư và đô thị hóa. Đời sống văn hóa tinh thần mỗi ngày bị biến đổi mà xu hướng tích cực chưa có biểu hiện như một dòng mạch chính đáng tin cậy. Chúng ta đã có nhiều giải pháp để cứu vãn văn hóa phi vật thể ở miền Trung và Tây Nguyên nhưng quả thật chưa đi vào đời sống cộng đồng như một nhu cầu tự thân mà có tính chất sân khấu hóa, chỉ mang tính giới thiệu, quảng bá cho khách du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của các "thượng đế" (mặc dù điều này là cần thiết).
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là đô thị hóa đã làm cho các di sản văn hóa vật thể bị lấn chiếm, bị thay đổi, biến dạng và biến mất. Đây là thực trạng đáng báo động hiện nay nhưng lại không được nhận thức một cách đầy đủ từ các ban, ngành trong xã hội. Những người theo "quyết định luận kinh tế", theo tư duy "phát triển kinh tế là trọng tâm" đã mặc nhiên đẩy các di sản văn hóa ra khỏi các trung tâm đô thị, các thành phố, xâm phạm các di tích, sẵn sàng phá bỏ các di sản văn hóa để phục vụ cho cái gọi là "phát triển". Sự kiện đồi Vọng Cảnh ở Huế năm 2005, chuyện một lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa đòi rút khỏi di tích… là những minh chứng cho những cách làm thiếu cân nhắc về văn hóa. Trong khi đó, từ năm 1996, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã từng cảnh báo các nước đang phát triển cần tránh kiểu tăng trưởng "không gốc rễ", kiểu tăng trưởng hy sinh văn hóa để tìm kiếm lợi ích trước mắt dẫn đến việc đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
3. Khi nói về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế, các quan niệm truyền thống thường chia cắt hai lĩnh vực này bởi lẽ xem văn hóa là thứ yếu, là lĩnh vực không làm ra lợi nhuận. Thực ra văn hóa là cái đặc thù, văn minh (kinh tế) là cái phổ biến. Đồng thời giữa văn hóa và văn minh là một sự thiếu hiểu biết cần được bù đắp trong thế giới đa phương hiện nay. Trong giới hạn của một chuyên đề, tôi đề xuất một số ý tưởng (tuy chưa hệ thống) về phát triển văn hóa miền Trung trong quá trình hội nhập, trong đó vấn đề tạo và gìn giữ bản sắc văn hóa cần được coi trọng.
Thứ nhất, cần xây dựng quy hoạch lại các đô thị, các vùng miền văn hóa một cách văn minh nhưng phải giữ lại đặc thù của văn hóa. Có thể học tập tính bền vững của các đô thị nước ngoài nhưng không được máy móc áp dụng rập khuôn mà phải gắn với truyền thống văn hóa. Chẳng hạn, ý tưởng về một phố làng của Quảng Nam đã được đặt ra để xây dựng một bản sắc cần phải được theo đuổi nếu không quá trình đô thị hóa sẽ cào bằng mọi vùng miền. Một quy hoạch hay lắng nghe ý kiến của các nhà khoa học, văn nghệ sĩ (kể cả ý kiến phản biện). Nếu quy hoạch không phù hợp phải điều chỉnh ngay, không vì cá nhân (vì lỡ ngồi trên lưng hổ) mà duy trì quá lâu những cái sai, cái xấu.
Thứ hai, đầu tư nhiều công sức, tiền của hơn nữa để kiểm kê lại toàn bộ di sản văn hóa với tinh thần: di sản văn hóa là tài sản(vật chất và tinh thần) của địa phương, vùng miền để bảo vệ, lưu giữ vì đấy là sản phẩm của cả cộng đồng. Đối với các tỉnh duyên hải miền Trung, hệ thống các di sản văn hóa Chăm, các đình làng, nhà thờ tộc, các thiết chế tín ngưỡng, hệ thống thiết chế tôn giáo… có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khẳng định diện mạo văn hóa miền Trung. Chính vì vậy, các địa phương cần đầu tư nguồn lực để giữ gìn, phát huy giá trị của nó trong điều kiện mới. Chính vì vậy mà tuyệt đối không để biến mất di sản văn hóa của mình. Thực tế cho thấy, do ham muốn tăng trưởng kinh tế mà một số địa phương đã đánh mất tài sản văn hóa của mình. Đó là kiểu khai thác du lịch không bền vững cho nên tạo ra nhiều thách thức trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản trong thời gian qua.
Thứ ba, đầu tư nhiều hơn nữa cho việc sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới, tác phẩm nghệ thuật mới. Bản sắc văn hóa không đồng nghĩa với những cái gì thuộc về truyền thống mà phải tạo ra cái mới bắt rễ từ truyền thống. Chẳng hạn, trong xây dựng các công trình công cộng cần đưa vào yếu tố nghệ thuật, thẩm mỹ để tránh tình trạng khô cứng bởi lẽ ngoài tính ích dụng phải có tính thẩm mỹ. Chúng ta có thể hiểu vì sao chùa Cầu của Hội An không thuần túy là một công trình kiến trúc dân dụng mà là một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật. Có cơ chế ưu đãi và thu hút các nhà nghiên cứu khoa học, các văn nghệ sĩ sáng tác cho Đà Nẵng (kể cả người nước ngoài). Có thái độ trân trọng đối với những đề xuất của đội ngũ trí thức, tôn vinh những nghệ nhân.
Thứ tư, khai thác giá trị, bản sắc văn hóa của từng vùng miền từ văn hóa ẩm thực, trang phục, kiến trúc, lễ hội đến các làng nghề truyền thống. Sự độc đáo của làng đá Non Nước vào các công trình sáng tạo nghệ thuật, kể cả công trình kiến trúc dân dụng ở Đà Nẵng. Đây cũng là cách để quảng bá thương hiệu làng nghề Non Nước góp phần vào việc tạo dựng bản sắc Đà Nẵng.Thực tế cho thấy các danh hiệu di sản thế giới đã mang lại những giá trị kinh tế to lớn mà cụ thể là thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch (tuy nhiên đó phải là một thương hiệu du lịch bền vững trong sự bảo tồn các giá trị di sản). Năm 1994, số lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam là hơn 1,165 triệu, nhưng đến năm 2008 là 4,253 triệu lượt người, và mới đây chúng ta đã đón vị khách du lịch thứ 5 triệu. Từ việc phát triển du lịch thông qua các danh hiệu danh giá đã được thế giới công nhận sẽ có nhiều tác động tích cực đến địa phương có di sản như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có cơ hội thu hút đầu tư, cơ sở hạ tầng được nâng cấp… Theo số liệu của ông Phạm Sanh Châu - tổng thư ký UBQG UNESCO của Việt Nam thì danh hiệu UNESCO là một thương hiệu lớn trị giá 500 triệu đô la Mỹ và bình quân mỗi di sản trên thế giới thu hút 1 tỷ lượt du khách. Do đó, việc xây dựng một thương hiệu UNESCO là rất hiệu quả trong việc phát triển kinh tế. Chính vì thế mà địa phương có di sản thế giới sẽ có sự phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, bộ mặt xã hội đổi thay nhiều so với trước. Về điều này, tỉnh Quảng Nam , Thừa Thiên - Huế nói riêng và khu vực miền Trung nói chung thật sự có nhiều lợi thế.









