Phát huy nguồn lực con người trong giáo dục - đào tạo đại học
Nguồn lực ngành giáo dục đại học gồm hai thành tố cơ bản, có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là số lượng và chất lượng nguồn lực cán bộ viên chức ngành giáo dục đào tạo. Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng cần được xem xét trong quá trình giải quyết mâu thuẫn lớn của giáo dục đại học nước ta, đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu vừa phải mở rộng quy mô, vừa đảm bảo và nâng cao chất lượng nguồn lực con người trong giáo dục đại học với điều kiện thực hiện còn hạn chế. Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với phát triển chất lương giáo dục đại học. Nếu số lượng không tương xứng với yêu cầu phát triển giáo dục, phát triển kinh tế đều tác động không tốt đến sự phát triển giáo dục – đào tạo. Chất lượng nguồn lực vừa mang tính chất chung, vừa mang tính đặc thù. Tính chất chung, đó là nguồn lao động với phẩm chất, đức tính, tâm lý, truyền thống của người Việt Nam – con người có bản chất nhân văn – nhân bản, nhân ái trong quan hệ con người và duy lý, biết sử dụng các quy luật để xây dựng cuộc sống; có nhân cách, ý thức rõ về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; con người lao động có tay nghề cao, sáng tạo ra các giá trị để làm giàu cho mình và cho xã hội (1). Tính đặc thù của nguồn lao động ngành giáo dục – đào tạo được xét dưới các gốc độ: là những người có trình độ dân trí cao, có năng lực hiểu biết sư phạm và phương pháp sư phạm; họ là những người lao động trí tuệ, vừa chính xác, khoa học lại đòi hỏi tính gương mẫu cao; sản phẩm có tính trừu tượng, đó là giảng dạy giáo dục các thế hệ học sinh, hình thành và phát triển trí tuệ, đạo đức, nhân cách cho thế hệ học trò, đào tạo lớp người mới có khoa học, kỹ thuật, có đạo đức, năng động, sáng tạo. Hơn bất kỳ hoạt động lao động nào, sản phẩm của người thầy là con người và trí tuệ nhân cách của con người. Nếu người mẹ sinh ra con người thứ nhất, thì giáo dục là người thầy sinh ra con người thứ hai – con người có tri thức và nhân cách.
Do đặc thù lao động, nguồn nhân lực ngành giáo dục – đào tạo giữ vai trò vô cùng trọng, trong đó đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên là lực lượng quan trọng nhất. Họ là chủ đạo của quá trình giáo dục, là lực lượng trực tiếp thực hiện các mục tiêu giáo dục – đào tạo, từng bước nâng cao dân trí, phát triển nhân tài cho đất nước. cho dù sau này, các hình thức học tập có phát triển phong phú đến đâu đi nữa (tự học, học từ xa, học từ cuộc sống, học qua mạng internet…), nhưng không thể thiếu được vai trò của người thầy. Người thầy là cầu nối giữa thế giới tri thức, khoa học với con người. Sẽ không có một nền dân trí cao nếu không có một đội ngũ người làm giáo dục có trình độ, tâm huyết và giàu năng lực sáng tạo. Kinh nghiệm thế giới đã chứng tỏ, thành công của các cuộc cải cách giáo dục ở nhiều nước phụ thuộc chủ yếu vào sự hưởng ứng một cách tự nguyện cũng như trình độ để có đổi mới của đại bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên (2). Như vậy, để có một nền giáo dục đúng tầm, nhất định chúng ta phải có đội ngũ thầy cô giáo giỏi, để có đội ngũ thầy cô giáo giỏi phải chăm nom, vun trồng một cách toàn diện. Có thể nói, trong giáo dục vấn đề giáo viên là vấn đề “đại sự” (3). Trong mọi giai đoạn phát triển của xã hội, họ luôn là lực lượng “hạt nhân”, bởi không giống như các ngành nghề khác, sản phẩm của họ là con người. Chất lượng của đội ngũ giáo viên sẽ ảnh hưởng đến nhiều thế hệ học sinh, thậm chí còn là nhân tố tác động đến sự tồn tại và phồn vinh của cả một quốc gia.
Để đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục đại học, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên phải là người có trách nhiệm cao đối với sứ mạng đào tạo thế hệ trẻ, là người có đủ bản lĩnh để không ngừng tu dưỡng, học hỏi rút kinh nghiệm, đổi mới phương pháp dạy học, thường xuyên gương mẫu, bởi chính họ và nhân cách của họ là
“hình mẫu” trong giáo dục sinh viên. Vì thế, Kết luận số 14/KLTW nêu rõ: “Xây dựng và triển khai trương trình xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý một cách toàn diện” (4). Thực tế tồn tại lớn nhất của giáo dục đại học hiện nay ở Việt Nam là vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên, chất lượng đào tạo và chất lượng sinh viên. Đội ngũ giảng viên dạy đại học của ta không những ít, có trình độ thấp, mà còn đang bị lão hóa. Từ năm 1987 đến năm 2009, quy mô sinh viên đại học, cao đẳng tăng 13 lần, nhưng số giảng viên chỉ tăng 3 lần. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ chỉ đạt 10,16%, thạc sĩ 37,315%, số giảng viên có học hàm giáo sư phó giáo sư chỉ 7% và phần lớn đang ở độ tuổi trên 60. Đội ngũ giảng viên cốt cán đã về hưu hoặc sắp về hưu, dẫn đến tình trạng hụt hẫng nghiêm trọng đội ngũ giảng viên có chất lượng. Hơn nữa, đội ngũ giảng viên hiện nay chủ yếu được đào tạo trong nước, không tinh thông ngoại ngữ, ít có quan hệ khoa học với các trường đại học ở nước ngoài, nên rất khó khăn trong việc nghiên cứu tài liệu cũng như tiếp cận được với nền giáo dục hiện đại trên thế giới hiện nay. Cùng với ngoại ngữ là trình độ ứng dụng công nghệ thông tin của hầu hết các giảng viên còn hạn chế, do cơ sở vật chất ở các trường còn nghèo nàn, lạc hậu. Giảng viên lên lớp vẫn thường dạy theo kiểu thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép, kiến thức không được cập nhật, xa rời thực tế cuộc sống. Giảng viên thường dạy cho sinh viên những kiến thức cụ thể, những hiểu biết mà mình tích lũy được trong kinh nghiệm giảng dạy mà không chú trọng đến việc dạy nghề cho sinh viên.
Ở Việt Nam hiện nay các trường đại học không có sức hút nhân tài. Theo báo cáo của 67 trường đại học, 13 trường có mức thu nhập bình quân dưới 3 triệu đồng/ tháng/ người, 44 trường từ 3 – 6 triệu, 2 trường trên 10 triệu, 4 trường 6 - 8 triệu, 4 trường 8 – 10 triệu đồng/ tháng/ người. Theo quy định mỗi giảng viên phải giảng 365 tiết một năm, trong khi có giảng viên giảng đến 1.000 đến 1.500 tiết/ năm. Tình trạng này một phần do thiếu giáo viên, một phần để tăng thu nhập đảm bảo cuộc sống. Như vậy, giáo viên sẽ không có thời gian nghiên cứu, đọc sách và đổi mới phương pháp, dẫn đến chất lượng sản phẩm đào tạo thấp không phải là điều khó hiểu. Định mức lao động, chế độ giảng dạy, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học hiện nay quá thấp. Chưa có những chính sách thích hợp trong việc tuyển chọn người có năng lực, có tài. Ngoài ra, còn tình trạng giảng viên giảng dạy và học tập nâng cao trình độ không đúng với chuyên môn, dẫn đến số lượng giảng có trình độ sau đại học tăng nhưng chất lượng không tăng, đào tạo một chuyên ngành nhưng lại giảng chuyên ngành khác.
Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục đại học. Vì đây chính là nội lực trong các trường đại học. Vì thế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các trường đại học hiện nay là nhiệm vụ cấp bách. Chất lượng đó nằm ở cả bên trong và bên ngoài. Bên trong, đó là trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn, nghề nghiệp; trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ tin học và khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào trong giảng dạy tiềm ẩn bên trong bản thân mỗi cá nhân, do quá trình đào tạo và tự đào tạo mà nên. Bên ngoài là hiệu quả công tác quản lý và hiệu quả của mỗi giờ giảng. Hiệu quả này không chỉ phụ thuộc ở các yếu tố bên trong, mà còn bộc lộ ở phương pháp giảng dạy, ở nghệ thuật giáo dục và ở tinh thần trách nhiệm của giảng viên. Đối với giáo dục – đào tạo ở góc độ thứ hai là quan trọng. Do vậy, để nâng cao chất lượng nguồn lực giáo dục trong các trường học cần tập trung vào các giải pháp chính sau:
Thứ nhất,đẩy nhanh công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ và giảng viên trong các trường đại học.
Để tạo được nguồn lực con người có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phát huy vai trò tích cực của giáo dục – đào tạo đại học, trong đó đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên giữ vai trò trọng yếu, có ý nghĩa quyết định. Muốn có nguồn lực con người đạt chất lượng cao, trước hết phải có đội ngũ giảng viên vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, tận tụy say mê sáng tạo trong nghề nghiệp. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên có đủ phẩm chất, năng lực và nghiệp vụ sư phạm là một yêu cầu có tính quyết định chất lượng giáo dục – đào tạo ở các trường đại học. Để có đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên đủ về số lượng và nâng cao về chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, trước hết, phải xây dựng các trường sư phạm, các trường quản lý giáo dục có trọng điểm để vừa đào tạo giảng viên chất lượng cao, vừa tiến hành nghiên cứu khoa học giáo dục đại học đạt trình độ tiên tiến. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách cụ thể để thu hút học sinh giỏi vào học tại các trường sư phạm, hoặc giữ lại những sinh viên giỏi, thủ khoa của các trường làm nguồn bổ sung cho đội ngũ giảng viên tại các trường đại học. Muốn vậy, về phía các trường đại học phải tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ giảng viên trên chuẩn; tích cực đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, học gắn với hành để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đào tạo giảng viên phải gắn với bố trí và sử dụng hợp lý để sớm khắc phục sự thiếu thốn và hẫng hụt giữa các thế hệ giảng viên trong các trường đại học hiện nay. Để thực hiện giải pháp này, ngành giáo dục – đào tạo đại học cần có điều tra cơ bản, có dự báo và giao chỉ tiêu cụ thể cho từng trường trong từng giai đoạn, để trường chủ động tuyển chọn đầu vào đảm bảo chất lượng theo quy định.
Tiến hành đồng bộ, toàn diện việc đổi mới phương pháp giảng dạy, có đánh giá khen thưởng, động viên kịp thời để khuyến khích giảng viên thi đua nâng cao chất lượng giảng dạy. Đờng thời, thực hiện chương trình bồi dưỡng giảng viên thường xuyên bằng nhiều hình thức để nâng cao phẩm chất, năng lực và chuẩn hóa đội ngũ giảng viên ở các trường. Bồi dưỡng đội ngũ giảng viên bằng cập nhật kiến thức, bổ sung những thiếu hụt về trình độ trước yêu cầu của đổi mới giáo dục đại học. Công tác bồi dưỡng cần đảm bảo đúng chuyên môn và nghiệp vụ, giữa trình độ lý luận và thực tiễn, giữa nội dung khoa học và kiến thức về phương pháp giảng dạy. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin cho cán bộ quản lý, giảng viên để thực hiện chương trình quản lý giáo dục bằng công nghệ thông tin và giảng viên có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy sao cho có kết quả. Tạo điều kiện về cơ chế, chính sách cho giảng viên đi học tập nâng cao trình độ ở cả trong và ngoài nước (đặc biệt ở các nước có trình độ giáo dục đại học tiên tiến hiện nay), sao cho phấn đấu đến năm 2015 có 50% giảng viên trình độ tiến sĩ ở bậc đại học.
Thứ hai, đổi mới công tác quản lý, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên trong các trường.
Chất lượng nguồn lực ngành giáo dục – đào tạo đại học còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do sự yếu kém về công tác quản lý giáo dục đại học và sử dụng đội ngũ cán bộ, giảng viên không hợp lý. Có đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên giỏi là rất quan trọng, nhưng nếu công tác quản lý giáo dục – đào tạo đại học không có những đổi mới căn bản thì kết quả vẫn không được như mong muốn. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo đại học cùng với việc chăm lo xây dựng dội ngũ giảng viên vừa có chuyên môn cao, vừa tâm huyết với nghề, vấn đề đặt ra là phải tích cực đổi mới công tác quản lý giáo dục đại học, sử dụng hợp lý đội ngũ. Quản lý, sử dụng hợp lý nguồn lực con người trong các trường đại học có vai trò vô cùng quan trọng và phải thể hiện trên các bình diện xây dựng kế hoạch, kiểm tra, thanh tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch và tuyên dương khen thưởng. Trên cơ sở những dự báo có tính khoa học và khả thi, các trường có kế hoạch tổng thể phát triển đến năm 2015, theo đó phải có quy hoạch phát triển giáo dục – đào tạo đại học bồi dưỡng nguồn lực con người của từng trường một cách tương ứng phù hợp với thực tiễn. Khắc phục từng bước sự mất cân đối vừa thừa, vừa lãng phí, vừa thiếu không đáng có hiện nay.
Đối với giáo dục – đào tạo, bên cạnh nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực thì còn vấn đề bồi dưỡng nhân tài. Để phát triển nhân tài, đòi hỏi phải có nguồn nhân tài – có thầy giỏi mới có trò giỏi. Bởi vậy, công tác xây dựng về đội ngũ nói chung phải tính đến kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán ở từng ngành học, môn học. Sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ ngành giáo dục đại học, nhất là cán bộ, giảng viên sau đại học để tạo điều kiện tốt hơn cho họ phát huy vốn hiểu biết, kết quả nghiên cứu khoa học của mình vào quản lý giáo dục đại học, giảng dạy ở đơn vị công tác. Đưa họ vào những vị trí kế cận nếu họ có đủ tiêu chuẩn cần thiết. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá để phân loại đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên là vấn đề cực kỳ quan trọng. Việc phân loại cán bộ quản lý, giảng viên phải tiến hành thường xuyên, phải xếp theo thứ tự, thông báo công khai để từ đó có hướng bồi dưỡng, kích thích được giảng viên nỗ lực vươn lên. Cùng với đánh giá, phân loại là thực hiện công tác tuyên dương, khen thưởng. Đây là giải pháp khá hiệu quả trong việc khai thác nguồn lực con người ở các trường đại học. Tuyên dương, khen thưởng sẽ tạo động lực trong thi dua và phấn đấu vươn lên trong đội ngũ giảng viên.
Thứ ba, phát triển kinh tế, tạo điều kiện để tăng thu nhập, nâng cao đời sống đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm nghề nghiệp cán bộ, giảng viên.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chỉ số phát triển giáo dục của một quốc gia hay một địa phương là do nhiều yếu tố tạo nên như: truyền thống văn hóa, gia đình, trình độ dân trí và sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó phát triển kinh tế là nền tảng để phát triển giáo dục. Phát triển kinh tế là một giải pháp quan trọng để tăng thu nhập, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống cán bộ, giảng viên để họ có điều kiện được học tập nâng cao trình độ, được chăm sóc sức khỏe y tế… Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cán bộ, giảng viên phải đồng thời với việc nâng cao ý thức trách nhiêm nghề nghiệp, nếu quá đề cao khuyến khích bằng lợi ích vật chất sẽ làm mất đi cái thanh cao của nghề giáo, điều mà bản thân người thầy không muốn và xã hội cũng không thể chấp nhận được, vì nó vi phạm đến nhân cách của người giảng viên và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên. Hiện nay, trước những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất. Đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các nhà trường cũng có một số người vì chạy theo đồng tiền mà xem nhẹ kỷ cương, coi nhẹ danh dự người thầy dẫn đến tha hóa. Để nâng cao ý thức trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ, giảng viên, trước hết cần coi trọng công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, giảng viên. Xây dựng nề nếp, kỷ cương trong trường học, kiểm tra đánh giá đúng chất lượng cán bộ, giảng viên, đồng thời ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc ảnh hưởng đến tư cách, phẩm chất người thầy giáo.
Thứ tư, thực hiện chính sách ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên.
Chính sách đối với nhà giáo là vấn đề hết sức quan trọng và nhạy cảm. Kinh nghiệm của các nước phát triển đã chỉ ra rằng, không có sự thành đạt nào lại tách khỏi sự ưu tiên hàng đầu cho giáo dục. Ở nước ta, đã có nhiều chính sách đãi ngộ với giáo viên, nhưng vấn đề đặt ra là, lương của giảng viên hiện nay còn quá thấp. Chính sách lương, chính sách đãi ngộ phải đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động, theo giá trị sáng tạo của người lao động phức tạp, có như vậy người giảng viên mới yên tâm dồn hết sức lực, trí tuệ và thời gian vào việc dạy học và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ. Chính sách tiền lương và chính sách ưu đãi phải toàn diện, vừa tác động đến đời sống vật chất, vừa tác động đến đời sống tinh thần của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giảng viên, kích thích được tinh thần tự giác, sáng tạo.
1/ Thái Dung Tuyên: Những vấn đề cơ bản giáo dục hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr 282.
2/ Trần Kiều: Chất lượng giáo dục; Thuật ngữ, quan niệm,Tạp chí Giáo dục, Hà Nội, 2003, tr 3.
3/ Trương Giang Long: Vấn đề phát triển nguồn lực ở nước ta hiện nay, tạp chí Cộng sản, Hà Nội, 1997, tr 58.
4/ Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương: Tư liệu triển khai nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX trong lĩnh vực khoa giáo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 2.