Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 19/03/2007 23:53 (GMT+7)

Phát hiện quan trọng về gốm Chu Đậu qua một gia phả

Sau khi phát hiện di tích sản xuất, những sưu tập gốm này đã được nâng cao giá trị, nghĩa là chúng đã có nguồn gốc đích thực tại Chu Đậu (Việt Nam ). Đặc biệt là sau khi khai quật con tàu đắm ở ngoài khơi Cù Lao Chàm (Quảng Nam) thì diện mạo gốm ChuĐậu càng rõ hơn. Hiện nay đã có một số sách chuyên khảo về gốm Chu Đậu và hàng trăm bài báo viết về đề tài này ở trong và ngoài nước, trong số đó có những bài viết sai về sự kiện này cũng không ít. Ví dụ, có người viết: bà Bùi Thị Hý là vợ nghệ nhân Đặng Huyền Thông, mặc dầu chúng ta đã biết, hai người sống xa cách nhau hơn một thế kỷ! Lại có người không hề tham gia khai quật một lần nào đã mạo nhận là người trực tiếp khai quật đến vài trăm mét vuông ngay từ lần đầu tiên! v.v... Trong 7 lần khai quật thì 5 lần do nhóm cán bộ khảo cổ của Ban Thông sử và sau này là Bảo tàng Hải Hưng thực hiện, có một lần kết hợp với Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Adelai của Úc, một lần kết hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam. Ngoài ra không một cơ quan hay cá nhân nào tham gia khai quật tại đây.

Gốm Chu Đậu với danh nghĩa là gốm hoa lam cũng từng lên tem Bưu chính Việt Nam từ năm 1989, nhưng rất tiếc tựa đề lại ghi nhầm là gốm thời Lý - Trần (Bộ 571), mặc dầu trong từng con tem ghi thế kỷ XV. Đầu năm 2006, ông Trần Anh Tuấn, Việt kiều tại Mỹ, có giới thiệu trên Bưu điện Hoa Kỳ một mẫu tem gốm Chu Đậu có tính chất kỷ niệm và quảng bá dòng gốm đặc biệt này. Tem có in hình một đĩa gốm có chữ Kim Ngọc. Gần đây chúng tôi có nhận được con tem cùng loại của ông Bùi Ngọc Tuấn, in hình một bình tỳ bà. Đây là hai trong số hơn 20 vạn sản phẩm gốm Chu Đậu, khai quật trong một con tàu đắm ở Cù Lao Chàm, mang đấu giá tại Mỹ từ năm 2000. Hai mẫu tem trên đã góp phần giới thiệu gốm ChuĐậu trên đất Mỹ cũng như trên thế giới. Gần đây, chúng tôi có được xem một sưu tập cổ vật của ông Hà Tôn Vinh, một tiến sĩ luật người Việt, quốc tịch Hoa Kỳ, đang làm tư vấn về luật quốc tế ở Hà Nội, có ngót 100 cổ vật gốm Chu Đậu, phần lớn được đấu giá tại Mỹ, có hiện vật có giá trên một tỷ đồng. Kỳ diệu thay, hàng triệu sản phẩm gốm ChuĐậu đã ra đi, lênh đênh vạn dặm trường, may mắn thay vẫn có sản phẩm được quay về cố hương nhờ những tâm hồn dân tộc. Tại nước Anh, năm 1999, người ta đấu giá một bình tỳ bà tam thái, cao 27cm, với giá trên 52.000 USD.Tại Nhật Bản, năm 1992, có một cuộc triển lãm gốm cổ Việt Nam của Viện Nghiên cứu mỹ thuật và hiệp hội mỹ thuật thành phố Phúc Cương mà trọng tâm là gốm Chu Đậu, kể cả trang bìa cũng in một đĩa tam thái cũng gốm Chu Đậu. Năm 1989, tại Thổ Nhĩ Kỳ, người ta đã xuất bản một tập sách có tiêu đề là Gốm nhỏ Việt Nam (Vietnamese ceramics miniatues),giới thiệu một sưu tập của Ulich J. Beck mà 343 hiện vật, theo chúng tôi, 100% là gốm Chu Đậu. Tháng 12 năm 2000, tại San Francisco và Los Angeles ở Mỹ, cùng xuất bản 2 tập sách có tiêu đề: “Những châu báu từ kho lưu trữ Hội An” (Treasures from the Hoi An Hoard),giới thiệu sưu tập gốm Chu Đậu trục vớt ở biển Cù Lao Chàm, đấu giá tại Mỹ, gồm 2.316 hình ảnh cá thể và sưu tập, với giá sàn thấp nhất không dưới 1.000 USD/hiện vật. Qua những sự kiện trên, chúng ta thấy giới khoa học và các nhà sưu tập cổ vật trên thế giới quan tâm đến gốm ChuĐậu như thế nào và giá của chúng không hề thấp so với các dòng gốm đẹp trên thế giới. Tuy nhiên, về phương diện mỹ thuật và kỹ thuật, mỗi dòng gốm có một ưu điểm và nhược điểm riêng, điều quan trọng nhất là giá trị văn hoá hàm chứa trong đó.

Hiện nay, gốm ChuĐậu đã có mặt trong nhiều sưu tập tư nhân và nhiều bảo tàng trong và ngoài nước. Tuy nhiên vẫn có những nhà khoa học băn khoăn rằng, những hiện vật vẽ công bút vô cùng tinh tế đó có phải thợ Việt Nam thực hiện không? Bình hoa lam lưu ở Bảo tàng quốc gia Tokapi Saray tại Istambun của Thổ Nhĩ Kỳ, vai có 13 chữ Hán: (Thái Hoà bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút).Cần lưu ý chữ Tháiở đây không có dấu chấm, dễ đọc nhầm thành chữ Đại, 13 chữ trên có thể dịch là: Năm Thái Hoà thứ 8 (1450), tại châu Nam Sách, người thợ (gốm) là Bùi Thị Hý vẽ (cũng có thể hiểu là người sáng tạo bình gốm đó),nhưng một số học giả lại dịch là: Năm Thái Hoà thứ 8, tại châu Nam Sách, có một ông thợ gốm họ Bùi vẽ chơi!mà không tin rằng đó là tác phẩm của một phụ nữ. Ông họ Bùi này vẽ chơi mà đẹp vậy thì không biết vẽ thật đẹp đến mức nào! Rất không may cho tác giả bình gốm này lại tên là Hý, nếu tên là Huyền chẳng hạn thì không còn chỗ mà bàn, nhưng khoa học cứ phải bàn đi bàn lại cho thấu đáo mới hy vọng đạt đến chân lý, điều đó cũng không có gì khó hiểu. Bình gốm này cũng đã giới thiệu trong sách giáo khoa lớp 10 phổ thông, in tháng 10 năm 2004, hình 51, trang 176, rất trang trọng, nhưng đáng tiếc lại chú thích là: “Thái Hoà bát niên, tượng nhân Bùi Thị kí bút”và dịch là: Năm Thái Hoà thứ 8/1450 người thợ gốm là Bùi Thị,như vậy bỏ mất ba chữ về địa danh (Nam Sách châu),sai một chữ về tên nghệ nhân (Hý thành kí),phần dịch đương nhiên là sai. Cách viết: thứ 8/1450làm học sinh dễ nhầm là tháng 8 năm 1450.

Niên hiệu Thái Hoà của Lê Nhân Tông đã được xác định trong Đại Việt sử ký toàn thư,những chữ Thái trong bình gốm hoa lam lưu ở Thổ Nhĩ Kỳ không có dấu chấm dưới chữ Đại đã làm phiền lòng nhiều học giả, nay niên hiệu Thái Hoà ở đây cũng được xác định. Chữ Thái ở thế kỷ XV viết không có dấu chấm, dễ đọc nhầm thành chữ Đại, điều này có thể chứng minh bằng những đồng tiền Thái Hoà thông bảo, chữ Thái cũng không có dấu chấm. Như vậy không phải cụ Hý quên không chấm hay do tráng men nhoà đi mà đây là cách viết đương thời, còn nguyên nhân nào viết như vậy thì cần phải nghiên cứu tiếp.

Sau một thời gian dài thảo luận trên hội nghị và báo chí, chúng tôi vẫn bảo lưu ý kiến rằng, có một bà Bùi Thị Hý sáng tạo chiếc bình đó, vì trên đồ gốm thời Mạc và Lê Trung hưng không ít phụ nữ được ghi tên trên đồ gốm với tư cách là tác giả như: Bà Nguyễn Thị Đỉnh vợ nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở Hùng Thắng (Nam Sách), bà Bùi Thị Đỗ, Hoàng Thị Vệ, Trần Thị Ngọ ở Bát Tràng... Bình gốm có niên đại, địa điểm, tác giả sản xuất là rất hiếm ở Việt Nam , đặc biệt là vô cùng hiếm ở thế kỷ XV. Nếu như tác giả Bùi Thị Hý được giải mã thì chúng ta giải quyết được căn bản lý lịch của bình gốm ở Bảo tàng Tokapi Saray (Istambun) và chủ nhân gốm ChuĐậu từ thế kỷ XV. Chúng tôi hy vọng một ngày nào đó tìm ra lý lịch bà Bùi Thị Hý, như đã tìm ra lý lịch của nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở thế kỷ XVI vào năm 1986, nhưng hy vọng trong trường hợp này quá mong manh, chẳng khác nào đáy bể mò kim.

Chúng tôi biết một tác phẩm gốm hoa lam nói trên từ tháng 7 năm 1980 qua lá thư đề ngày 10 tháng 6 năm 1980 của ông Makoto Anabuki, một công chức của Bộ Ngoại giao Nhật Bản, gửi cho ông Ngô Duy Đông, Bí thư Tỉnh uỷ Hải Hưng khi đó. Ông Bí thư đã chuyển lá thư đó cho tôi, lúc đó phụ trách công tác khảo cổ học của tỉnh, để nghiên cứu, trả lời. Không chỉ ông Anabuki mà nhiều học giả trên thế giới rất muốn biết tiểu sử bà Bùi Thị Hý, bình gốm hoa lam đó được sản xuất ở lò nào, nay thuộc làng xã nào của Nam Sách. Nhưng như Mạc Đĩnh Chi đã nói: “Xuất đối dị, đối đối nan...”, hỏi thì dễ, trả lời được câu hỏi này đâu phải dễ. Đến đầu năm 2006, tức đã 26 năm miệt mài tìm kiếm mà vẫn chưa có câu trả lời thoả đáng. Vấn đề tưởng như vô vọng, thì 2 giờ 30 chiều ngày 29-5-2006, do Liên hiệp các Hội khoa học - kỹ thuật Hải Dương giới thiệu, anh Bùi Đức Lợi và Bùi Xuân Nhạn mang đến cho tôi xem hai trang gia phả viết trên giấy bản, khổ nhỏ (14,4 x 24,5cm) đã ố vàng của dòng họ và một số di vật gốm như: Con kê 4 chân liền, con kê hình trụ, ắc bàn xoay, phần cổ của một bình tỳ bà hoa lam sưu tầm ở di tích lò tại làng. Chỉ cần từng ấy thứ cũng đủ biết nó là di tích của một lò gốm thời Lê sơ, di tích này dù có quan hệ đến ai đi nữa thì cũng là một phát hiện có giá trị, làm cho chúng ta hiểu sâu hơn về hệ thống di tích gốm thế kỷ XV ở Hải Dương. Điều đặc biệt là, sau khi đọc 2 trang (trang 4 và 5) gia phả nguyên bản bằng chữ Hán, do lý trưởng Bùi Đức Nhuận, hậu duệ 13 đời, sao y bản chính của họ Bùi, làng Quang Ánh, vào năm Bảo Đại Nhâm Thân, tức năm 1932, chúng tôi đã hiểu những nét căn bản về nữ tài Bùi Thị Hý, tác giả chiếc bình hoa làm, sản xuất năm Thái Hoà thứ 8. Đây là một thông tin vô cùng quý hiếm đối với những người làm công tác khảo cổ học về gốm sứ Việt Nam . Nguyên nhân là, nhân đọc bài báo về quá trình phát hiện gốm Chu Đậu, đăng trên tạp chí Khoa học và ứng dụng Hải Dươngcách đây chừng một tháng, anh Bùi Đức Lợi và Bùi Xuân Nhạn đã nhận ra rằng người làm chiếc bình hoa lam ở thế kỷ XV rất có thể là bà tổ cô 15 đời của mình, vì theo truyền ngôn, gia phả có ghi bà là người có tài làm đồ gốm. Các anh đã mang gia phả đến nhờ chúng tôi xác minh.

Ngay hôm sau, chúng tôi cùng phóng viên Đài phát thanh truyền hình Hải Dương tiến hành điền dã tại thôn Quang Ánh, dân gian gọi là Quang Anh, nay đã đổi thành Quang Tiền, thuộc xã Đồng Quang huyện Gia Lộc. Tại đây, chúng tôi được đọc sơ lược cuốn gia phả viết trên vải của họ Bùi vào năm Minh Mệnh Nhâm Thìn (1832), tư liệu trùng hợp với 2 trang viết trên giấy bản. Bên chùa Viên Quang, ở phía Bắc làng, gần sông Định Đào (Đĩnh Đào), có dấu vết của lò gốm. Ngày 31-5, các anh lại đưa tiếp cho tôi những trang gia phả tóm tắt và cũng là trọn vẹn một thông tin quan trọng về lịch sử đồ gốm Việt Nam, một văn bản hy hữu trong lịch sử gốm sứ Việt Nam. Qua nghiên cứu thấy rằng, cuốn gia phả viết trên giấy bản năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932) là cuốn sao bản viết năm Minh Mệnh Nhâm Thìn (1832), nghĩa là sau tròn 100 năm được sao lại cũng vào tháng đầu năm. Bản sao năm Minh Mệnh Nhâm Thìn cũng là một bản sao của một gia phả viết trước đó. Bản sao năm Bảo Đại Nhâm Thân đã lược bỏ một số chi tiết rất cần cho công tác nghiên cứu, như năm sinh của bà Bùi Thị Hý.

Dưới đây chúng tôi xin tóm tắt nội dung gia phả họ Bùi ở Quang Ánh và tiểu sử bà Bùi Thị Hý qua 2 cuốn gia phả nói trên: Thuỷ tổ là cụ Bùi Đình Nghĩa, con tướng quân Bùi Quốc Hưng (một trong 18 vị dự hội thề Lũng Nhai năm 1416), sinh năm Xương Phù 11 (1387), nguyên quán làng Cống Khê, huyện Chương Đức, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Cống Thượng, xã Hồng Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây). Năm Hưng Khánh thứ nhất (1407), để tránh giặc Minh, cụ Nghĩa di cư về trang Quang Ánh (nay là thôn Quang Tiền, xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Tại đây cụ sinh 2 người con. Con thứ nhất là Bùi Thị Hý, sinh năm Canh Tỷ (1420); con thứ hai là Bùi Đình Khởi, sinh năm Quý Mão (1423). Cụ Nghĩa là người có chí lớn, dũng cảm và mưu lược nổi tiếng đương thời, tham gia nghĩa quân Lam Sơn, hy sinh trong một trận hỗn chiến tại thành Đông Quan, sau chiến thắng giặc Minh, được Lê Lợi ban 55 mẫu lộc điền. Cụ trở thành thuỷ tổ của dòng họ Bùi trang Quang Ánh.

Người con gái trưởng của cụ là một phụ nữ tài năng, gia phả ghi là nữ tài, văn hay, chữ tốt, lại có biệt tài về hoạ. Bà đã giả trai thi đến tam trường, khi phát giác bị đuổi khỏi trường thi. Bà lấy ông Đặng Sĩ, một đại gia về đồ gốm ở làng Chu Nhẫm tức Chu Đậu, huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách. Bà là thợ có biệt tài làm bình gốm. Năm Thái Hoà thứ 10 (1452), bà cùng chồng về Quang Ánh giúp em trai dựng lò gốm, ở phía bắc trang, nơi gần sông Định Đào (Đĩnh Đào), giao thương với Chu Đậu, làm đặc sản gốm sứ cống Hoàng triều và xuất cho thương nhân các nước như Bắc Quốc, Nhật Quốc, và phương Tây. Từ đó họ Bùi Quang Ánh giàu mạnh không ngừng qua từng năm. Bà Hý không có con nên cuối đời về quê cha và mất tại đây vào ngày 12 tháng 8 năm Kỷ Mùi (1499) thọ 80 tuổi. Đến khi đất nước đại loạn (chiến tranh Trịnh - Mạc cuối thế kỷ XVI), làng mạc bị tàn phá, con cháu thất tán, không sản xuất được, phải cải họ đến 3 – 4 đời, sau đó nghề vinh của dòng họ thất truyền. Cuốn gia phả có bài thơ chữ Nôm, tựa đề là Văn nghệ xưa:

Xưa kia nơi ấy là gò.

Bởi làm sành sứ nên gò thành ao.

Năm qua tháng lại biết bao.

Thăng trầm lịch sử thấp cao, tiến lùi.

Nghề vinh của tộc họ Bùi.

Vì chung quốc loạn ngậm ngùi vong suy.

Đôi lời tiếc nuối sầu bi.

Của dòng con cháu họ Bùi Quang Anh.

Như vậy tiểu sử Bùi Thị Hý đã rõ từ dòng họ, quê quán đến tài năng cũng như năm sinh, năm mất đã rõ:

Bà không phải là một thợ gốm bình thường mà là một nữ trí thức, văn hay, chữ tốt, lại có biệt tài về họa, từng thi đỗ tam trường. Vậy bà đi thi vào khoa nào? Căn cứ vào năm sinh (1420) thì Bùi Thị Hý chỉ có thể dự thi vào các khoa từ năm 1442 đến năm 1450. Thời gian này chỉ có hai khoa tiến sĩ: Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3 (1442) và Mậu Thìn, Thái Hoà thứ 6 (1448), rất có thể bà đã dự kỳ thi năm Đại Bảo thứ 3 (1442), kỳ thi mà Nguyễn Trãi làm Đề điệu. Cái không may và nghiệt ngã chốn trường thi phong kiến lại trở thành cái may cho nghề gốm sứ Việt Nam . Cuộc đời của một trí giả không mấy khi trọn vẹn, nhưng cũng không dễ mất hoàn toàn, âu cũng là lẽ thường xưa nay.

Bà lấy ông Đặng Sĩ, một đại gia sản xuất gốm sứ ở Chu Đậu, huyện Thanh Lâm, chuyên sản xuất gốm đặc biệt để tiến cống và xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây. Sự kiện này làm sáng tỏ tình hình ngoại thương và thủ công nghiệp đương thời. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Đinh Tỵ, Thiệu Bình năm thứ tư (1437)..., tháng 11, ngày Mậu Thân..., nước Xiêm sai sứ là bọn Trai Cương Lạt sang cống. Vua đưa cho sắc thư bảo mang về, và trừ cho phần thuế buôn giảm xuống bằng nửa phần năm trước, cứ 20 phần thu 1 phần, rồi thưởng cho rất hậu. Ngoài ra, về phần chúa nước ấy, ban cho 20 tấn lụa màu, 30 bộ bát sứ; phần cho bà phi nước ấy là 5 tấm lụa màu, 3 bộ bát sứ, mỗi bộ 35 cái”.Phải chăng trong số hàng buôn bán và tiến cống nói trên có sứ ChuĐậu? Và chúng tôi ngờ rằng, có thể con tầu đắm ở biển Cù Lao Chàm là con tầu xấu số này? Cái không may ở thế kỷ XV lại là cái may mắn của thế kỷ XX. Nếu không có di vật con tầu đắm này chúng ta không thể hiểu một thời rực rỡ của dòng gốm này.

Bà đã cùng chồng là ông Đặng Sĩ và em trai là Bùi Khởi xây dựng một lò gốm tại quê vào năm Thái Hoà thứ 10 (1452), thời lê Nhân Tông, liên kết với ChuĐậu để xuất khẩu, từ đó gia đình phong lưu, cường thịnh. Chúng tôi tin rằng, đương thời còn nhiều giai thoại về nữ tài mà ngày nay không còn cơ hội khôi phục. Như vậy bà không chỉ là một nghệ nhân xuất sắc mà còn là một doanh nhân tiêu biểu.

Điều đương nhiên là bình gốm hoa lam, cao 54,9cm, sản xuất năm Thái Hoà thứ 8 (1450) lưu ở Thổ Nhĩ Kỳ là tác phẩm của bà, hơn thế còn là bút tích của nghệ nhân ở tuổi 31. Như vậy, ngay từ giữa thế kỷ XV, gốm ChuĐậu đã có những sản phẩm cao cấp để xuất khẩu và tiến cống. Từ tư liệu này, theo hiểu biết hiện nay, có thể gọi cụ Đặng Sỹ và Bùi Thị Hý là những vị tổ của làng gốm mỹ nghệ ChuĐậu.

Phát hiện này đã khẳng định gốm ChuĐậu trước hết là do người địa phương sản xuất, trong đó có vai trò của phụ nữ, mà điển hình là Bùi Thị Hý. Từ nay lịch sử Việt Namcó thêm một phụ nữ tài năng xuất chúng, từng giả trai đi thi đến tam trường và là một nghệ nhân đồ gốm xuất sắc, một doanh nhân tiêu biểu của Việt Nam ở thế kỷ XV. Vậy ở cuối thế kỷ XVI, có một bà Nguyễn Thị Duệ giả trai thi tiến sĩ ở Cao Bằng là điều không có gì lạ. Gia phả này còn cung cấp một thông tin về tướng quân Bùi Đình Nghĩa, người chiến đấu dũng cảm và hy sinh tại thành Đông Quan vào khoảng năm 1426 – 1427.

Trên đây là một phát hiện quan trọng không chỉ về gốm Chu Đậu mà còn là của lịch sử gốm sứ Việt Nam và những vấn đề có liên quan của lịch sử dân tộc, trong đó có thủ công nghiệp và ngoại thương ở thế kỷ XV – XVI. Tư liệu này trùng hợp với kết quả điền dã và những gì chúng ta đã biết về trung tâm gốm mỹ nghệ đặc biệt này. Văn bản học cũng khá minh xác, vấn đề còn lại là cần nghiên cứu kỹ hơn, kể cả khai quật để phát hiện những tư liệu có liên quan, đồng thời đảm bảo sự chân thực và phong phú của lịch sử một dòng gốm đẹp của Việt Nam cũng như của thế giới ở thế kỷ XV – XVI. Hy vọng sẽ có những tư liệu có giá trị được phát hiện xung quanh sự kiện này. Bình gốm hoa lam lưu ở bảo tàng quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ thuộc vào hàng bảo vật quốc gia, tuy không còn ở trong nước, nhưng nhiều thập kỷ qua, chưa một ai ở trong nước đến thăm và nghiên cứu di vật vô giá này, hay đã có người đến thăm mà chúng tôi không được biết.

Được sự nhất trí của UBND tỉnh Hải Dương và sự ủng hộ tích cực của các ngành hữu quan và sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương, ngày 12 tháng 8 Bính Tuất (3-10-2006), Hội Sử học tỉnh Hải Dương kết hợp cùng UBND xã Đồng Quang và dòng họ (Bùi Quang Ánh) tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 507 năm ngày qua đời của Bùi Thị Hý, một nữ trí thức xuất chúng, một nghệ nhân xuất sắc, đồng thời là một doanh nhân tiêu biểu ở thế kỷ XV, người đã góp phần sáng tạo những kiệt tác về gốm sứ Việt Nam, ký sinh vào đó những yếu tố văn minh và tâm hồn dân tộc, như những bức thông điệp giử đến các dân tộc trên thế giới cách đây trên 550 năm, đến nay vẫn được các học giả trong và ngoài nước trân trọng, tôn vinh như những tác phẩm xuất sắc của Việt Nam và nhân loại ở thế kỷ XV.

Nghiên cứu gốm ChuĐậu không chỉ là vấn đề lịch sử, tôn vinh những nghệ nhân trong quá khứ mà vì sự phát triển gốm sứ trong bối cảnh hội nhập với thế giới. Đứng về phương diện ngoại thương, việc mở rộng giao thương với thị trường quốc tế, những doanh nhân của gốm ChuĐậu đã đi trước trên 5 thế kỷ. Đó là vấn đề không bình thường mà ngày nay chúng ta cần nghiên cứu, phát huy. Rất mừng là gốm ChuĐậu đã tái sinh, phục hưng với sức sống mãnh liệt và đầy triển vọng.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Diễn đàn Dầu khí và Năng lượng 2025: Thúc đẩy hình thành hệ sinh thái năng lượng an toàn, hội nhập
Ngày 28/7, Diễn đàn Dầu khí và Năng lượng thường niên 2025 với chủ đề “Chuyển dịch năng lượng: Tầm nhìn và Hành động” đã diễn ra tại Hà Nội do Hội Dầu khí Việt Nam (Hội DKVN) phối hợp cùng Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) tổ chức. Diễn đàn là một trong những sự kiện quan trọng Chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Petrovietnam lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đoàn công tác VUSTA tham dự Cuộc họp lần thứ 33 Đại hội đồng FEIAP tại Thái Lan
Từ ngày 23-25/7/2025, đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) do ông Nguyễn Quyết Chiến - Tổng Thư ký làm Trưởng đoàn đã tham dự Cuộc họp lần thứ 33 Đại hội đồng Liên đoàn các tổ chức Kỹ thuật châu Á - Thái Bình Dương (FEIAP) tại Bangkok, Thái Lan. Tham gia đoàn công tác có đại diện Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng VUSTA.
Chủ tịch VUSTA Phan Xuân Dũng dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam được thành lập ngay sau giải phóng năm 1975. Trong suốt 50 năm qua, Hội đã có nhiều đóng góp quan trọng cho hoạt động tư vấn chính sách đối với các vấn đề trọng đại của đất nước. Gần đây nhất là phản biện trong góp ý văn kiện Đại hội XIII và XIV của Đảng, các đề án tăng trưởng xanh, đường sắt cao tốc, quy hoạch vùng và dự thảo nhiều chính sách kinh tế quan trọng...
Lãnh đạo VUSTA tham dự Hội nghị IAS 2025
Đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) do PGS.TS Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch VUSTA, Giám đốc Ban Quản lý dự án Quỹ Toàn cầu - VUSTA về phòng, chống HIV/AIDS làm trưởng đoàn đã tham dự Hội nghị Khoa học quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS 2025 (Hội nghị IAS 2025) tại Rwanda từ ngày 12/7 đến ngày 17/7/2025.
Thắp nến tri ân nhân Kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ
Ngày 24/7, nhân kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947–27/7/2025), Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp cùng Đoàn Thanh niên Hội Nhà báo Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trang trọng tổ chức Chương trình “Thắp nến tri ân” tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch (Cầu Giấy, Hà Nội).