Phải thận trọng khi sử dụng tư liệu lịch sử
Hiện nay, theo tôi được biết đang có hiện tượng khá phổ biến là một số cá nhân có tâm huyết, có tiền của, đã đứng ra xây dựng mới các đền, chùa, lăng mộ… để tưởng niệm người xưa, góp phần bảo tồn những di tích lịch sử. Việc làm của họ xuất phát từ động cơ, mục đích đúng đắn, tốt đẹp. Song trong khi làm, có một số người do không hiểu biết đầy đủ, không nghiên cứu kỹ các tư liệu liên quan, không tham khảo ý kiến các nhà khoa học chuyên ngành, hoặc tin vào bói toán, ngoại cảm… nên đã biến việc làm của mình vốn mang ý tưởng tốt đẹp, cao cả, thành tác hại khôn lường cho xã hội và cho hậu thế. Xin đơn cử trường hợp của danh nhân Nguyễn Trung Ngạn (1289 -1370), hiệu Giới Hiên, người đứng đầu kinh đô Thăng Long thời Trần và về sau đã làm tới chức Đại hành khiển (Tể tướng). Các tư liệu lịch sử chính thống cũng như sách vở đã công bố, đều cho biết ông quê gốc ở làng Thiên Thi, nay là xã Thổ Hoàng, thị trấn Ân Thi, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông đỗ Hoàng giáp khi mới 16 tuổi, nổi tiếng là thần đồng và có nhiều công lao với đất nước về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, ngoại giao… Hiện ở Thổ Hoàng còn có mộ và nhà thờ ông.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ở Thanh Hoá, tại xã Quý Lộc, huyện Yên Định, lại vừa xây mấy ngôi mộ bằng đá, với tấm biển ghi rõ là mộ danh nhân Nguyễn Trung Ngạn, có tóm tắt cả tiểu sử và cả vợ ông là bà họ Vương. Phải nói, hai ngôi mộ mới xây tại Thanh Hoá đẹp và kì công hơn nhiều so với ngôi mộ ở Thổ Hoàng. Một câu hỏi đặt ra là sao gia đình vị Tể tướng thời Trần lại lên ở tận xã Quý Lộc và mất tại đấy, nơi mà xưa kia còn là rừng xanh cỏ dại?
Năm 2009, tôi may mắn được Ban Tổ chức Hội thảo khoa học về danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn mời tham gia, nên có chủ tâm tìm hiểu xem mối quan hệ của vị danh nhân họ Nguyễn với địa phương Thanh Hoá như thế nào? (1). Theo chính sử cho biết thì Nguyễn Trung Ngạn có giữ chức An phủ sứ Thanh Hoá vào năm Bính Dần, niên hiệu Khai Thái (1326). Đến năm Ất Hợi, niên hiệu Khai Hựu (1335), ông lại được cử giữ chức Phát vận sứ Thanh Hoá, phụ trách vận chuyển binh lương cho Thượng hoàng Trần Minh Tông đánh dẹp giặc dã ở miền Tây Nghệ An… Ông còn để lại hơn trăm bài thơ được người sau sưu tầm, tập hợp lại thành cuốn sách Giới Hiên thi tập, trong đó có ít nhất ba bài viết về Thanh Hoá (2). Ông cũng đã từng công cán ở Nghệ An và lấy một bà vợ ở địa phương này, hiện thấy ghi trong cuốn gia phả dòng họ Nguyễn Công ở làng Bình Thọ, xã Thái Sơn, huyện Đô Lương và hậu duệ, con cháu ngày nay phát triển khá đông đúc (3). Vì thế, lúc đầu chúng tôi cũng đã đặt vấn đề ở Thanh Hoá vị danh nhân họ Nguyễn có thể có một người vợ nữa chăng, nên đã tìm hiểu, nghiên cứu.
Theo một số thông tin cho biết, trước đây gia phả dòng họ Nguyễn ở làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá thấy ghi vị tổ là quan Hành khiển thời Trần, nên dòng họ này đã cho người sống bên Pháp tới hỏi ý kiến Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Trong thư trả lời, Giáo sư Hoàng đã viết rằng người họ Nguyễn giữ chức Hành khiển thời Trần theo Đại Việt sử ký toàn thư thì chỉ có cụ Nguyễn Trung Ngạn. Song giáo sư không hề kết luận danh nhân họ Nguyễn đã lấy bà vợ người Thanh Hoá, là vị khởi tổ dòng họ Nguyễn ở Nguyệt Viên, mà chỉ phỏng đoán là ông có vợ ở Nghệ An, thì biết đâu thời gian giữ chức tại Thanh Hoá không lấy một phụ nữ Nguyệt Viên nổi tiếng đẹp về làm vợ, rồi để lại đây không mang theo ra Bắc? Tôi cũng đã đến làng Nguyệt Viên khảo sát, được ông tộc trưởng họ Nguyễn cho xem cuốn phả bản chữ Hán phô tô và bản đã dịch, cũng chỉ thấy ghi một câu là vị khởi tổ dòng họ này giữ chức “Hành khiển thời Trần, hiệu là Nguyệt Giang, được thờ làm thần ở Tam Kỳ lộ” và ông dẫn tôi ra gần bờ sông chỉ cho xem một ngôi mộ mới xây lại, nghe truyền là mộ cụ khởi tổ của dòng họ. Như vậy chưa có tư liệu lịch sử nào nói rằng danh nhân Nguyễn Trung Ngạn lấy vợ Thanh Hoá, nhất là lại cho biết cụ thể mất và an táng ở xã Quý Lộc!
Trong cuộc Hội thảo khoa học về danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội và Ban Liên lạc UNESCO toàn quốc dòng họ Nguyễn Hiền, được tổ chức ở Văn miếu Quốc tử Giám Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2009, tất cả 22 bản báo cáo trình bày và in trong kỷ yếu, cũng không hề có một ý kiến nào cho rằng vị danh nhân họ Nguyễn có vợ ở Thanh Hoá, mất và mai táng ở Thanh Hoá (4). Cả hai cuốn phả bằng chữ Hán về danh nhân Nguyễn Trung Ngạn và hậu duệ của ông ở Thổ Hoàng, Hưng yên và ở Thái Sơn, Nghệ An hiện còn cũng không có lấy một câu chữ nào nói về việc ông lập gia đình ở Thanh Hoá, cũng không có bà vợ nào là họ Vương. Như vậy việc xây mấy ngôi mộ khá khang trang ở Quý Lộc, là xuất phát từ tấm lòng thành của chủ nhân, nhưng sẽ để lại tác hại về lịch sử, gây ngộ nhận cho các thế hệ mai sau. Liệu tới đây dòng họ Nguyễn ở Ân Thi và cả khách tham quan, du lịch, nghiên cứu… hỏi căn cứ vào đâu mà xây mộ danh nhân lịch sử Nguyễn Trung Ngạn tại Quý Lộc, thì chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Nên chăng các cơ quan hữu trách cần vào cuộc, để tìm một giải pháp thoả đáng. Tuy hơi muộn, song không thể không làm!
Trường hợp thứ hai cũng xuất hiện ở Thanh Hoá, là có một số di tích, danh lam, muốn khẳng định niên đại ra đời, người ta đã viện dẫn các tư liệu lịch sử liên quan để chứng minh. Song do thiếu hiểu biết, hoặc cố tình, nên có hiện tượng xuyên tạc sử liệu, nhằm phục vụ cho ý kiến chủ quan xuất phát từ những lời đồn miệng, thiếu căn cứ khoa học. Ví như lịch sử chùa Giáng, ở huyện Vĩnh Lộc chẳng hạn. Trong cuốn sách Chùa Tường Vân (chùa Giáng) (5), các tác giả muốn chứng minh ngôi chùa này “đã tồn tại ngót bảy trăm năm”, bằng cách viện dẫn câu chuyện vua Trần Duệ Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, ngủ lại ở nơi đây, nằm mơ thấy “đám mây vàng” xuất hiện, điềm báo thắng trận. Quả nhiên quân Chiêm thua, vua Trần Duệ Tông ca khúc khải hoàn trở về, cho xây ngôi chùa này và lấy tên là “Tường Vân” như trong giấc mơ. Tuy không thấy sách ghi xuất xứ của câu chuyện (nhưng rất cần thiết), song nội dung đề cập đến sự kiện vua Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành vào năm Bính Thìn, niên hiệu Long Khánh thứ 4 (1376), nên người đọc thấy rõ là các tác giả đã viện dẫn cứ liệu lịch sử để chứng minh niên đại xuất hiện, đồng thời muốn nói đến sự linh ứng của chùa Giáng. Nội dung cuốn sách có đoạn viết như sau: “… Trên đường đi có qua địa phận núi Đốn Sơn, thấy chốn này huyền linh, phong cảnh hữu tình, bốn bên có núi sông bao bọc, thật là một khu thắng địa. Đêm hôm đó, nhà vua (tức Trần Duệ Tông – NV chú) nằm mộng thấy có một đám mây vàng tựa như dải lụa từ không trung dần dần hạ xuống, đám mây cứ ẩn hiện trông rất kỳ lạ, vua bàng hoàng tỉnh dậy biết mình nằm mộng, đem chuyện kể lại cho quan tướng nghe. Mọi người đều cho là chuyện khác thường, là điểm lành hiển hiện giúp vua thảo trừ giặc.
Hôm sau, vua sai quan làm đàn tế tạ trời đất rồi đem quân đi thảo phạt giặc. Hai bên đại chiến một trận, trong lúc thế trận không phân thắng bại, đột nhiên trời đất bỗng tối sầm, mây mù kéo đến, sấm chớp nổi lên, làm lay động cả vùng đất. Trong không trung xuất hiện đám mây vàng tựa như đám mây vua nằm mộng trước đó, mây bay chao đảo trước trận giặc, quân Chiêm thấy vậy hoảng loạn. Nhà vua thừa thắng thúc quân xông lên làm cho lính Chiêm tan rã. Khải hoàn trở về, vua mở yến tiệc khao thắng ba quân, luận công thưởng phạt, sai đình thần về núi Đốn Sơn lễ tạ. Sắc lệnh cho bản dân lập một ngôi chùa nhỏ ở ngay khu vực tế lễ năm xưa, đồng thời đặt tên chùa theo ý nghĩa đám mây mà vua nằm mộng trước đây, đó là “Tường Vân tự” (Chùa ghi nhớ về đám mây lành)” (6).
Câu chuyện trên là hoàn toàn xuyên tạc lịch sử, có thể xem là bịa đặt. Vì theo ghi chép trong chính sử thì vua Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành đã bị đại bại, nhà vua (là vị vua duy nhất của nước ta) đã tử trận ở nước ngoài. Vậy đâu có phải nhờ đám mây điềm lành giúp nhà vua thắng trận, và vua đã tử trận nơi đất khách quê người, thì làm gì có chuyện vua khải hoàn trở về cho xây chùa Giáng và đặt tên chùa? Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rất rõ ràng: “… Giặc thừa thế xông ra đánh. Vua (tức Trần Duệ Tông – NV chú) bị hãm trong trận mà chết. Bọn Đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hoà, Hành khiển Phạm Huyền Linh đều chết cả” (7).
Thực tế cho thấy sự tích một số di tích, đền, chùa dựa vào các truyền thuyết, dã sử… Song khi đã căn cứ vào tư liệu lịch sử thì phải đảm bảo trung thực, chính xác. Việc tuỳ tiện xuyên tạc sự kiện lịch sử nói trên, đã dẫn đến một số tác hại khôn lường.
Thứ nhất là người đọc sẽ nghi ngờ, không tin chùa Giáng xuất hiện từ thời Trần và có tên là “Tường Vân”. Thứ hai là muốn chứng minh Thần Phật thờ ở chùa linh thiêng, báo điềm mây lành thắng trận, nhưng sự thực lịch sử lại là bại trận, nên câu chuyện bịa đặt trở thành phản tác dụng!
Hiện tượng trên đây không phải là cá biệt. Vì vậy mong các cơ quan hữu trách cần quan tâm giúp đỡ các Ban quản lý di tích chẳng những trong việc xây dựng, trùng tu, mà cả việc biên soạn, xuất bản các tư liệu dùng để minh chứng lịch sử những di tích, danh lam, tránh phạm phải một số sai lầm đáng tiếc.
Chú Thích:
1. Hương Nao, “ Dấu tích trên đất Thanh của danh nhân Nguyễn Trung Ngạn, người đứng đầu kinh đô Thăng Long thời Trần”, báo Thanh Hoá, ngày 14-3-2009.
2. Giới Hiên thi tập,Tài liệu lưu trữ ở Thư viện tỉnh Hưng Yên.
Nguyễn Tài Cẩn, Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, Nxb Giáo dục, 1998.
3. Vũ Duy Mền, “Về cuốn gia phả họ Nguyễn Công làng Bình Thọ, xã Thái Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn, Hà Nội, 2009, tr.109.
Quốc Chấn, Danh Nhân Nguyễn Trung Ngạn (1229 – 1370) với xứ Nghệ, tạp chí Văn hoá Nghệ An, tháng 3-2009.
4. Kỷ yếu Hội thảo danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn, Sđd.
5. Phạm Tuấn, Phạm Tân, Chùa Tường Vân (chùa Giáng), Nxb Thanh Hoá, 2009.
6. Phạm Tuấn, Phạm Tân,…, Sđd, tr.7,8
7. Đại Việt Sử ký toàn thư, tập II, Nxb KHXH, Hà Nội, 1985, tr.161.








