Phải coi trọng cả tập đoàn kinh tế nhà nước và tập đoàn kinh tế tư nhân
Ông Quốc cho biết: “Trong quá trình hình thành và xác lập vị thế của doanh nhân trong xã hội hiện đại, đặc biệt là trong xã hội hiện đại, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, tôi là người chứng kiến. Vì chứng kiến nên tôi là người đồng hành. Trong quá trình đó, tôi thấy có nhiều tín hiệu rất đáng mừng.
Tôi đã chứng kiến quá trình hình thành tầng lớp doanh nhân trong thời kỳ thuộc địa - thời kỳ doanh nhaâ ăn theo chủ nghĩa thuộc địa rồi tàn tạ cũng theo chữ thuộc địa. Rồi thời kỳ bùng nổ gắn liền với độc lập dân tộc - những năm 1945, 1946 đã có những quan điểm rất cơ bản để phát triển nền kinh tế quốc gia, trong đó vai trò coi trọng của tầng lớp mà Hồ Chủ tịch có khái niệm rất hay là Công Thương.
Công cuộc đổi mới, chúng ta đã xác lập được vai trò của doanh nhân, nhất là việc Chính phủ có quyết định chọn ngày Doanh nhân Việt Nam . Đây là một đột phá về mặt nhận thức xã hội.
Năm 2005, lần đầu tiên chúng ta mới có khái niệm tập đoàn trong Luật Doanh nghiệp với cách đề cập hết sức mờ nhạt. Đến tháng 11/2009, Chính phủ có thêm Nghị định về TĐKT. Đây là Nghị định cho TĐKT nhà nước, nhưng trươc đó cũng có kết luận của Thủ tướng về việc lập chính sách chung cho doanh nghiệp tư nhân, trong đó giao cho doanh nhân trẻ tổ chức mô hình về doanh nghiệp tập đoàn. Vậy là Chính phủ đã hết sức quan tâm đến việc xây dựng các TĐKT.
Về các TĐKT nhà nước, trong quá trình vừa thí điểm vừa thực hiện nên cũng còn những bất cập, với nỗi lo lắng lớn của xã hội, nhất là trong hoàn cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ chúng ta đã, đang phải vượt qua. Trong khi Chính phủ đã mở lối cho doanh nghiệp tư nhân thì các doanh nghiệp tư nhân tích cực phát triển thành các TĐKT. Đây là xu thế tích cực. Hai nhóm TĐKT này cần phải song song phát triển, đặc biệt trong sự quan tâm với bên thứ ba là các TĐKT nước ngoài.
TĐKT nước ngoài đang mang lại nhiều nguồn lực cho đất nước: vốn, công nghệ, kinh nghiệm… Nhưng với TĐKT thứ ba này, chúng ta không cẩn thận, không có đối trọng thì nguồn lợi quốc gia sẽ bị đưa ra nước ngoài, sự phát triển của quốc gia sẽ không tương xứng với những cái ta mất đi, nhất là vấn đề môi trường, an sinh xã hội, an ninh quốc gia… Do đó, cả TĐKT tư nhân và TĐKT nhà nước đều có vai trò cự kỳ quan trọng.
Về khái niệm doanh nhân dân tộc, một thời kỳ chúng ta dùng rất nhiều khái niệm kinh tế quốc dân. Chữ quốc dân là đặt vị trí lớn nhất cho người dân. Kinh tế quốc dân ta cần phải đề cập nền kinh tế ấy mang lợi ích gì cho người dân, người dân có đóng góp gì. Tư thường hay nói tăng trưởng GDP nhưng sự tăng trưởng ấy có làm tăng chất lượng sống của người dân hay không mới là quan trọng.
Doanh nhân dân tộc cũng phần nào hiểu theo nghĩa như thế. Doanh nhân là một lực lượng tạo ra của cải cho xã hội. Lực lượng này không chỉ là thành phần của dân tộc mà nó là lực lượng phục vụ lợi ích, phục vụ sự phát triển của dân tộc. Việc đưa ra khái niệm này mặc dù nội hàm chưa hoàn toàn rõ ràng nhưng ít nhất nó đã đưa ra được thuật ngữ rất đáng phải suy nghĩ”.
Có ý kiến cho rằng, giai đoạn trước đây việc giữ gìn và bảo vệ đất nước, giai cấp công nhân, nông dân và trí thức là những người đi đầu, còn nay doanh nhân đang là tiên phong trên mặt trận phát triển kinh tế đất nước. Theo ông Quốc, điều này cũng dễ hiểu bởi cuộc sống phát triển thì nhận thức và lý luận cũng phải phát triển theo. Với nền kinh tế tri thức, người công nhân rất nhanh có thể làm chủ doanh nghiệp, thậm chí người công nhân cũng đồng thời là chủ doanh nghiệp.
Chúng ta cần nhìn lực lượng xã hội để thúc đẩy, lực lượng nào phù hợp với lợi ích dân tộc thì phải tập hợp lại để ưu tiên phát triển (ưu tiên trong phù hợp với các cam kết quốc tế).
Có một đặc điểm của các TĐKT nhà nước ở Việt Nam là chủ doanh nghiệp là quan chức doanh nhân chứ không phải doanh nhân thuần túy. Trả lời câu hỏi về sự khác biệt này, ông Quốc cho rằng, trong kinh doanh thì quan trọng là vốn của ai. Nếu vốn của anh dù là tiểu thương cho đến TĐKT tư nhân thì anh chỉ hoạt động trong phạm vi pháp luật điều chỉnh thôi.
Còn cái khó của TĐKT nhà nước là vốn của Nhà nươc, do đó doanh nhân ở đây chỉ là đại diện Nhà nươc ra quản lý, nên cần đề ra các quy định, chuẩn mực cả về chính trị và chuyên môn cho đại diện này. Thực ra đây là các cán bộ Nhà nước nhưng đứng ra quản lý một nguồn vốn rất lớn. Xã hội nhìn vào đại diện này ở chỗ trách nhiệm và năng lực đối với tài sản của Nhà nước.
Trả lời câu hỏi: Phát triển các TĐKT hiện nay, đâu là điều ông quan tâm nhất?, ông Quốc nói: “Tôi là người nghiên cứu lịch sử nên thấy rằng cái gì cũng đòi hỏi điều kiện phát triển, trong đó có điều kiện thời gian. Mọi người đều muốn mọi cái như mình hoặc như mình mong muốn, cái này đôi khi là không tưởng. Muốn có điều kiện thời gian thì cần có yếu tố cạnh tranh.
TĐKT nhà nước cần cạnh tranh với TĐKT nước ngoài, nhưng trước hết là TĐKT tư nhân trong nước. Hai loại TĐKT trong nước đều là nguồn lực quốc gia, nếu coi trọng cái này hơn cái kia sẽ làm giảm đi sưc mạnh của nền kinh tế đất nước. Điều này đang được chứng minh, TĐKT nhà nước đang có những yếu kém nhất là trong khủng hoảng hiện nay hay sự chưa rõ về mô hình thì TĐKT tư nhân vẫn hoạt động hiệu quả và ngày càng định hình rõ”.
Đư ra lời khuyên với các doanh nhân đang có mong muốn thành lập TĐKT tư nhân, ông Quốc cho rằng: Doanh nhân đó cần có “đầu óc” thực tế, nhất là người Việt Nam có những tư duy chưa thích hợp (như việc thích sự hào nhoáng, hình thức), cái này đôi khi là những trở lực. Doanh nhân cần coi đó như là một lao động cực kỳ khắc nghiệt.
Doanh nhân chỉ có thể thành công khi có năng lực, có trí tuệ. Dĩ nhiên môi trường kinh doanh là quan trọng nhưng không thể chờ môi trường, cần phải biết vượt qua nó.








