Ông Năm Yersin
Ông sinh ra cách đây 151 năm tại Aubone, thuộc tổng Vaud của đất nước Thụy Sĩ tươi đẹp. Ông mồ côi cha từ trước khi chào đời và với cố gắng phi thường của người mẹ tảo tần một mình nuôi ba con thơ ông vẫn có thể tốt nghiệp trường Đại học Y khoa tại Lausanne của Thụy Sĩ. Đó là bước khởi đầu để sau đó trở thành nhà nghiên cứu Vi sinh vật học khi gia nhập vào Viện nghiên cứu của nhà bác học vĩ đại Pháp Louis Pasteur tại trường Đại học danh tiếng Escole Normale Supériểu năm mới 23 tuổi. Chính vì thế ông gia nhập quốc tịch Pháp và sau đó năm mới 27 tuổi ông đã xung phong nhận nhiệm vụ sang Việt Nam – một nơi còn rất lạc hậu và cách xa quê hương hàng nghìn dặm.
Từ ngày ấy đến nay ngành Sinh học Việt Nam đã có biết bao tiến bộ để không phụ lòng người khởi đầu cho các nghiên cứu sinh học ở nước ta. Hội các ngành sinh học Việt Nam hiện là một Liên hiệp của trên 10 các Hội chuyên ngành về Sinh học và chuyên ngành nào cũng đã đạt được những thành tựu thật đáng khích lệ. Chúng ta đã giảng dạy tất cả các lĩnh vực Sinh học bằng tiếng Việt, có các Viện nghiên cứu cấp Nhà nước về từng ngành Sinh học và hàng năm liên tục đào tạo ra các Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ theo các chuyên ngành sinh học. Trong một số lĩnh vực chúng ta đã hội nhập được với thế giới nhờ sự cộng tác với các chuyên gia nước ngoài hoặc cử cán bộ ra làm việc tại nước ngoài.
Về Vi sinh vật học, trong đó có Vi khuẩn học – chuyên môn sâu của Yersin chúng ta có thể tự hào về việc khám phá nhanh chóng được các mầm bệnh do vi sinh vật gây ra ở người, ở gia súc, gia cầm và cây trồng. Chúng ta đã xây dựng được các Bao tàng giống chuẩn về vi sinh vật, trong đó có VTCC ở Đại học Quốc gia Hà Nội là thành viên của WFCC (Liên đoàn các Bảo tàng giống vi sinh vật thế giới). Hội Vi sinh vật học Việt Nam đã là thành viên chính thức IUMS (Liên đoàn quốc tế các Hội Vi sinh vật học). Chúng ta đã có thể liên tục phát hiện các loài, các chi vi sinh vật mới nhờ các kỹ thuật phân lập hiện đại và định tên nhờ giải trình tự AND bằng các thiết bị tân tiến. Các loài và chi mới này được mang tên Việt Nam và được các thế giới công nhận. Mặc dầu chúng ta đã có thể tự sản xuất được hầu hết các loại vaccin, kể các các vaccin từ các chủng mang gen tái tổ hợp như vaccin chống viêm gan B, vaccin chống Viêm não Nhật Bản, nhưng do sự biến đổi nhanh chóng của các chủng vi khuẩn, virut gây bệnh mà nhu cầu về vaccin của chúng ta vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phòng tránh được một số dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, mà cho đến tận hôm nay vẫn chưa sản xuất lớn từ thời Yersin. Chúng ta có hàng loạt các nhà máy dược phẩm to lớn, trang bị hiện đại nhưng hầu hết chỉ là các xí nghiệp bào chế các dược phẩm gốc nhập từ nước ngoài. Một điểm sáng mới xuất hiện là công ty Nanogen của anh Hồ Nhân – một Việt kiều từ Mỹ trở về đầu tư và bắt đầu làm ra được những dược phẩm thay thế cho nhập khẩu.
Về y học cơ sở chúng ta đã có những bước tiến lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các công trình về miễn dịch học, tế bào gốc, ghép tạng và ghép đa tạng, can thiệp tim mạch, thụ tinh nhân tạo, đẩy lùi các bệnh nhiệt đới, bệnh ung thư phát hiện sớm và phát triển rộng rãi một nền y tế cộng đồng…. Tuy nhiên do dân số tăng nhanh, đầu tư không đáp ứng được so với yêu cầu nên đã xảy ra tình trạng quá tải ở các bệnh viện lớn và do Bảo hiểm y tế chưa phổ cập khiến cho người ngheo khó lòng tiếp cận được với các giải pháp cứu chữa các bệnh hiểm nghèo. Tấm gương của Yersin trong việc dấn thân tìm ra bằng được mầm bệnh dịch hạch (Yersinia pestis) luôn thôi thúc tâm trí của các bác sĩ trẻ trong việc nâng cao y đức, trị bệnh cứu người và thường xuyên tình nguyện đến với đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Chúng ta thường nhắc nhau ghi nhớ lời của Yersin trong một bức thư gửi về cho mẹ: “… Không bao giờ con có thể đòi tiền của người bệnh trong việc chăm sóc họ. Con coi y khoa như là một chuyên môn và là một mục vụ. Đòi tiền để chăm sóc bệnh nhân chẳng khác nào nói với người đó rằng: Tiền hay Mạng sống?”.
Là một Tiến sĩ y khoa danh giá nhưng Yersin đã dành rất nhiều năm tháng sống gần gũi với dân nghèo vùng Nha Trang và để lại cả hài cốt trên mảnh đất này. Ông lập nông trại ở Suối Dầu, lập trang trại ở Hòn Bà để di nhập các loài cây thuốc quý, như cây Canh-k-na chống sốt rét, trồng cỏ để nuôi ngựa nhằm sản xuất Kháng huyết thanh… Làng Tân Xương ở Suối Dầu đã lập đền thờ cúng ông như vị Thành hoàng của làng. Chúng ta may mắn có một thiên nhiên nhiệt đới với tính đa dạng sinh học rất cao. Các kết quả điều tra cho thấy, nước ta có khoảng 12.000 loài thực vật có mạch, trong đó đã định tên được khoảng 7.000 loài, 275 loài thú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 2470 loài cá, 5.500 loài côn trùng… Tính độc đáo của Đa dạng sinh học này là khá cao:10% số loài thú, chim và cá của Thế giới tìm thấy ở Việt Nam, hơn 40% số loài thực vật thuộc loài đặc hữu, không tìm thấy ở nơi nào khác ngoài Việt Nam, nhiều loài gia súc, gia cầm đã được thuần dưỡng và tuyển chọn từ hàng ngàn năm nay. Riêng Thiền sư Tuệ Tĩnh đã tập hợp được rất nhiều y án với 182 chứng bệnh và được chữa bằng 3.873 phương thuốc đông dược, phần lớn là của nước ta thời đó. Chúng ta hiện đã phát hiện được rất nhiều ít các dược liệu có thể giúp dân chúng phòng và chữa bệnh. Nhưng thật tiếc, trong số 50 loài cây có tác dụng kháng ung thư mà người nước ngoài phát hiện thấy ở Việt Nam có tồn tại, không ít loài đã bị người nước ngoài thu mua đến gần như cạn kiệt (ví dụ như cây Bảy là một hoa – Thất diệp nhất chi hoa). Ngày nay khi đến thăm Đà Lạt mộng mơ và tươi đẹp chúng ta đều không thể quên Yersin chính là người khám phá ra vùng đất quý giá này với tên gọi là cao nguyên Lâm Viên.
Ngày nay chúng ta đã có không ít Đại học y khoa, hàng năm đào tạo ra hàng nghìn bác sĩ, nhưng xin chớ quên Trường Y khoa Đông Dương (Escole de Médecine del’Indochine) – tiền thân Đại học y Hà Nội, chính là do Yersin cố gắng xin thành lập vào năm 1902 và ông đã làm hiệu trưởng cho đến năm 1904.
Chúng ta ghi nhớ công ơn Yersin không chỉ với các tên đường, Bảo tàng, công viên… mà quan trọng hơn chính là tấm gương về cuộc đời tận tụy vì khoa học, vì nhân dân của Yersin phải là ngọn lửa trong trái tim mỗi thanh niên chúng ta. Đó là tấm gương sáng sẽ sống mãi không chỉ với nhân dân thế giới mà còn với nhân dân Việt Nam chúng ta. Đừng quên trước lúc lâm chung vào ngày 1-3-1943 Yersin đã viết Di chúc, trong đó ghi rõ: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nươi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho viện Pasteur Nha Trang và những người cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản dị, không huy hoàng, không điếu văn”. Người dân Nha Trang đã làm theo di chúc của ông trừ việc đã có một đám tang rất đông và ai cũng khóc như tiễn đưa Ông Năm như một người thân yêu nhất của mình.