Nuôi bò vàng hàng hóa vùng cao nguyên đá
Theo số liệu thống kê thì tổng đàn bò theo các năm 2007 là 60.271 con, năm 2008 là 65.703 con, năm 2009 là 71.133 con có thể nói số lượng qua các năm ngày càng gia tăng. Đây là vùng có tổng số lượng đàn bò lớn nhất trong phạm vi toàn tỉnh chiếm tới 70%, tính cả về quy mô tăng trưởng cũng như sản lượng thịt bán ra thị trường trong và ngoài tỉnh.
Giống bò cao nguyên này theo nhiều tài liệu còn gọi là bò Vàng vùng cao hoặc bò Mèo là do đồng bào người H’Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc tạo nên từ rất lâu đời. Giống bò Mông bản địa này thích nghi với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng cao và tập tục nuôi bò truyền thống của người Mông. Giống bò này hiện nay tập trung chủ yếu ở các tỉnh như Lai Châu, Sơn la và Hà Giang, nhưng tập trung chủ yếu ở vùng cao núi đá Hà Giang.
Có thể nhận biết về bò vàng vùng cao qua đặc điểm hình thái như bò có thân hình cao, to cân đối. Bò đực trưởng thành nặng bình quân 360-400 kg/con, bò cái là 280-300 kg/con. Màu lông chủ yếu là vàng tơ, một số ít màu cánh gián hoặc đen nhánh. Mắt và lông mi hơi hoe vàng sáng rõ. Bò đực có u to, yếm rộng, đỉnh trán có u gồ còn bò cái có bầu vú to. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 50-52%, tỉ lệ thịt tinh đạt 38-40%, thịt bò được nhiều người biết đến là loại thịt thơm, mềm, thớ mịn, ăn ngon và được đánh giá là có chất lượng cao hơn hẳn so với bò vàng truyền thống, được ưa chuộng trên thị trường. Thịt bò Mông đã có mặt ở thị trường Hà Nội từ rất lâu và đã được đưa vào nhiều siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch,… từng bước mở rộng, đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường.
Chăn nuôi bò là tập quán truyền thống của đồng bào các dân tộc vùng cao nguyên núi đá. Trải qua lịch sử lâu đời, đến nay đồng bào đã tích lũy được kinh nghiệm và kiến thức bản địa, kiến thức sản xuất với những cách thức độc đáo, tận dụng tiềm năng sẵn có để khai thác và phát triển đặc sản của địa phương. Với địa hình hiểm trở, núi đá nhiều, quỹ đất ít, thức ăn ít… nhưng số lượng đàn bò hàng năm tăng trưởng đều điều đó đã chứng tỏ dù có gặp nhiều khó khăn nhưng với sự cần cù, siêng năng của mình người dân đã bảo tồn giống bò Mông thành đặc sản hàng hóa.
Bên cạnh những tín hiệu đáng mừng đó vẫn nổi lên một số vấn đề như chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng mức của nhà nước để phát triển ngành hàng hóa trong chuỗi sản xuất bò thịt như nghiên cứu bảo tồn và phát triển giống, nghiên cứu về thức ăn, phương thức chăn nuôi, quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại. Hiện nay, việc phát triển đàn bò còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, manh mún, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi còn rất hạn chế do trình độ của người dân còn thấp. Nguồn vốn đầu tư ưu tiên cho phát triển nhãn hàng hóa bò Mông thành hàng hóa mũi nhọn, chủ lực còn nhiều hạn hẹp. Bên cạnh đó, việc thu mua bò vàng vùng cao chỉ tiến hành thông qua các lái buôn ở các phiên chợ và chưa có hình thức quản lý chặt chẽ, việc lưu thông, tiêu thụ sản phẩm còn mang tính tự phát, thiếu tính định hướng giữa phát triển sản xuất gắn với phát triển thị trường. Những nguyên nhân này ảnh hưởng tới chuỗi giá trị và lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Để phát triển thương hiệu hàng hóa cho bò vàng vùng cao ngoài các dự án mà Đảng và nhà nước đã quan tâm đầu tư trước đây như dự án trồng cỏ, dự án phát triển bò vàng, hội thi hoa hậu bò được tổ chức hàng năm… cần phải có các chương trình ưu tiên giải quyết các vấn đề mà thực tế đang phải đối mặt và tiến hành tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận (NHCN) “Bò Mông” cho sản phẩm Bò vàng cao nguyên đá. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi giới thiệu một số bước giải quyết vấn đề về tổ chức hệ thống, quản lý chất lượng từ khâu tuyển chọn giống đến thương mại hóa sản phẩm, cụ thể như sau:
Xác định cơ quan tham gia vào hệ thống quản lý NHCN; xây dựng phương án tổ chức hệ thống quản lý nội bộ NHCN; xây dựng hệ thống tổ chức hệ thống quản lý từ bên ngoài NHCN; xây dựng quy chế quản lý NHCN; quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống quản lý NHCN; quy trình tuyển chọn giống, thức ăn, phương thức chăn nuôi…;Quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm NHCN: quy trình về thương mại hóa, xúc tiến quảng bá sản phẩm NHCN; Nghiên cứu, đánh giá tổng quan về thị trường, nhu cầu thị trường và khả năng tiệu thụ sản phẩm…; Xây dựng phương án khai thác thương mại và phát triển gía trị NHCN; Lựa chọn vùng triển khai thí điểm; Đào tạo, tập huấn, hướng dẫn các chủ thể sử dụng NHCN; Hỗ trợ vận hành hệ thống quản lý NHCN từ bên ngoài; Triển khai hoạt động thương mại và quảng bá sản phẩm ở các siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch ở các thị trường lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh./.








