Nôn khan, biểu chưa giải
Bệnhthương hàn, hàn tà xâm phạm phần biểu chưa giải trừ, thường là còn thấy có các triệu chứng nhức đầu, cứng gáy, phát sốt, thân thể đau, không ra mồ hôi.
Dưới vùng tâm (vùng thượng vị) có thủy khí là ý muốn nói vùng vị quản có thủy khí đình tụ. Do thủy khí tích tụ, cho nên vị khí nghịch lên, phát sinh nôn khan; thủy khí xâm phạm tạng phế phát sinh ho. Nôn khan, phát sốt, ho là các biểu hiện chủ yếu của tình hình bệnh bên ngoài có biểu tà, bên trong có hiệp thủy khí.
Thủy khí, thủy ẩm gây bệnh, tùy theo khí thăng hay giáng, không nơi nào là không tới, hoặc nghẽn ở trên, hoặc tích ở giữa, hoặc trệ ở dưới, tùy theo nơi nó tới mà tạo thành bệnh, cho nên các triệu chúng phát sinh hoặc có hoặc không.
Thủy khí tích tụ, tân dịch không vận hành mát phát sinh khát nước, hoặc thủy dịch vào đường ruột mà phát sinh tiêu chảy, hoặc thủy khí nghẽn ở trên mà phát sinh nuốt nghẹn, phát sinh suyễn; hoặc tụ ở dưới mà gây ra tiểu tiện không thông lợi, bụng dưới đầy trướng.
Chứngsuyễn tuy giống như Ma hoàng thang chứng nhưng trường hợp nói trong điều 40 là do phế khí uất bế, chủ yếu thuộc cơ chế thủy khí xâm phạm tạng phế gây ra. Đó là điểm nên chú ý trong chẩn đoán phân biệt.
Các triệu chứng nói trên tuy nhiên bất tất phải đầy đủ, nhưng đều là thuộc nguyên nhân ngoại hàn, nội ẩm gây ra. Do đó, đều dùng Tiểu thanh long thang gia giảm điều trị.
Tiểu thanh long thang và Đại thanh long thang đều thuộc phương thang lưỡng giải biểu lý, nhưng nhằm giải trừ các cơ chế bệnh khác nhau. Đại thanh long thang chứng là nhiệt bế uất ở phần lý; phần lớn là biểu chúng, chỉ cóbứt rứt, bực dọc là lý chứng.
Tiểu thanh long thang chứng là thủy ẩm phục tùng ở trong; phần lớn là lý chứng, chỉ có phát sốt, sợ lạnh là biểu chúng. Nói cụ thể, Đại thanh long chứng là biểu hàn bó ở ngoài, lý có uất nhiệt. Tiểu thanh long chứng là bên ngoài có hàn ta, bên trong có thủy khí. Đó là điểm khác nhau giữa hai chứng trong chẩn đoán phân biệt.
Tiểu thanh long thang
Ma hoàng, Bạch thược, Tế tân, Can khương, Quế chi, Cam thảo chích, Ngũ vị tử, Bán hạ.
Ma hoàng, Quế chi giải biểu tà kinh Thái dương. Tế tân vào Thiếu âm hành thủy phần lý; Can khương tán đầy trướng ở ngực. Bán hạ giáng khí nghịch. Ngũ vị tử, Bạch thược thu liễm nghịch khí của phế. Cam thảo điều hòa các vị thuốc.
* * *
Trường hợp thổ ra đờm trọc, ho suyễn, điều 102 sách Kim quỹ yếu lược nói:
“Ho khí nghịch lên, chỉ có thể ngồi, không ngủ được, không ngừng thổ ra nhiều đàm trọc; điều trị có thể dùng Tạo giác hoàn trừ đàm”.
Ho, phát suyễn khí nghịch lên, luôn luôn thổ ra đàm trọc. Khí nghịch, đàm nghẽn, đến nỗi không nằm được, là do đàm trọc nghẽn ở trong làm chướng ngại đường khí (đường hô hấp) gây ra.
Nói chung, đàm đặc trong phế, nếu như thổ ra được, thế bệnh đáng lẽ giảm nhẹ. Trường hợp nói trong điều 102 tuy luôn luôn thổ ra đàm trọc, nhưng vẫn ho, khí suyễn, không nằm được, có thể biết là đàm trọc còn nhiều, bệnh thế bám dính tựa như keo. Nếu không mau tiêu trừ rất có thể gây ra nguy hiểm do đờm nghẽn khí bế. Cho nên điều trị dùng phương pháp trừ đàm mạnh, cho uống Tạo giác hoàn (còn gọi là Tạo giáp viên).
Tạo giác tân hàm, trừ nghẽn, thông trệ, lợi khiếu, tiêu đàm. Do lực thuốc rất mạnh, cho nên dùng mật làm tá dược chế thành hoàn. Dùng táo cao hòa thang uống, để kiêm cố tỳ vị. Trừ được đàm mà chính khí không bị thương tổn. Nhưng nên chú ý, Tạo giác hoàn xét đến cùng là phương thuốc trừ đàm rất mạnh, tất nhiên phải là đàm trọc nghẽn thịnh, hình và khí đều thuộc thực tính, mới có thể sử dụng. Hội chứng thích ứng với phương thuốc này là: Ho suyễn đờm nhiều, đặc dính như keo, chỉ ngồi mà không ngủ được (không nằm được), khạc đờm rãi khó khăn, ngực đầy tứchoăcđau lan đến sườn, đại tiện khó, mạch tượng hoạt, rêu lưỡi dính v.v... Ngoài ra, nếu như trúng phong, đàm ẩm, hầu phong... các chứng thuộc đàm rãi nghẽn, thịnh, hình và khí đều thực, cũng có thể châm chước linh hoạt vận dụng, nhưng nên thận trọng về liều lượng và phương pháp uống.
Nếu so sánh chứng bệnh nói trong điều 102 với chứng phế trướng thuộc cơ chế hàn ẩm uất phế, thì chứng trong điều này thuộc chứng phế trướng phát sinh do đàm trọc, nghẽn ở trên. Điều trị chứng phế trướng do hàn ẩm uất phế gây ra, dùng Xạ can ma hoàng thang để tán hàn, tuyên phế, giáng nghịch, hóa đàm. Xạ can ma hoàng thang: Xạ can, Ma hoàng, Sinh khương, Tế tân, Tử uyển, Khoản đông hoa, Ngũ vị tử, Đại táo, Bán hạ.
Xạ can, Ma hoàng tuyên phế trừ đàm. Sinh khương, Tế tân tán hàn, hành thủy. Khoản đông hoa, Tử uyển, Ban hạ trừ đàm trị ho. Ngũ vị tử thu liễm phế khí. Toàn phương có tác dụng trong tán có thu, không làm hao tổn chính khí. Dùng Đại táo là tá dược để an trung tiêu, điều hòa các vị thuốc. Hàn ẩm trừ thì ho suyễn lui.
Người xưa điều trị bệnh hen suyễn, có nguyên tắc “ở trên trị phế, ở dưới trị thận; khí phát cơn trị trên, lúc bình thường trị dưới. Phân rõ hư thực, biêu bản kiêm cố. Đó là tống kết kinh nghiệm biện chứng luận trị đối với bệnh hen suyễn có giá trị lớn.
Tạo giác hoàn
Tạo giác bỏ màng, tẩm dấm nướng, tán bột mịn, hoàn với mật bằng hạt tiêu sọ. Đại táo nấu cao, hòa nước chín làm thang. Mỗi lần uống 3 hoàn. Ngày 3 lần, tối 1 lần.
Tạo giác có tác dụng mở các khiếu, trừ phong đàm rất mạnh.








