Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 01/10/2007 23:04 (GMT+7)

Những “nhà khoa học” nông dân

“Vua cầu kéo”  Cà Mau

Ông Đặng Ô Rê

Ông Đặng Ô Rê

Anh tài công nhấn nhẹ tay ga một lần nữa rồi nhấc chân vịt lên khỏi mặt nước. Chiếc canô nhẹ nhàng nằm im trên tấm vỉ bằng những thân tràm ghép lại, máy vẫn nổ trầm trầm. Trên bờ, người gácđập khởi động chiếc máy dầu hiệu Yanmar rồi hụ ga. Con lăn từ từ quay, sợi dây thừng căng ra kéo tấm vỉ chở chiếc canô chậm rãi bò trên đường ray bằng gỗ, trồi lên khỏi mặt nước rồi trườn qua con đậpcao ngất ngưởng, nhẹ nhàng hạ xuống dòng kênh phía bên kia. Trong lúc chúng tôi mặt “xanh như tàu lá” vì sợ thì anh tài công khoái chí khoe: “Sáng kiến của dân Cà Mau đó, tài tình không?”. Và tác giảcủa sáng kiến “có một không hai” này là ông Đặng Ô Rê (Hai Ô Rê), người dân vẫn gọi bằng cái tên thân mật: “vua cầu kéo”.

Nhà “vua cầu kéo” nằm bên bờ kênh Hai Hạt thuộc ấp Thuận Lợi, xã Tân Thuận (huyện Đầm Dơi), kế bên công trình cầu kéo hoành tráng vắt ngang mặt đập đổ ra sông Gành Hào. Nói đến chuyện sáng chế này, ông Hai cười ha hả: “Túng quá làm đại, ai ngờ thành công”...

Năm 1982 ông Hai Ô Rê dời nhà từ Đông Hải (Bạc Liêu) về ngã ba kênh Hai Hạt. Hồi phong trào ngăn mặn phát triển rầm rộ, ngã ba kênh Hai Hạt cũng mọc lên một con đập to chần vần, ngăn cách con kênh với sông Gành Hào. Kênh Hai Hạt là tuyến thủy lộ quan trọng, hàng ngày lượng ghe xuồng lưu thông rất lớn. Sau khi con đập mọc lên, vợ chồng, con cái ông Hai Ô Rê cùng lối xóm lãnh đủ: Bất kể ngày hay đêm, nắng hay mưa, hễ có ghe xuồng tới là cả xóm hò nhau lấy dây thừng kéo qua đập.  Kéo riết rồi chịu không thấu. Một hôm ông Hai chợt nhớ đến hình ảnh chiếc xe chở lúa từ bến sông lên nhà máy xay xát, có bốn bánh bằng thép chạy trên đường ray. Ý tưởng làm một cái cầu kéo nảy sinh trong ông, nhưng khi đem bàn với vợ con và chòm xóm, ai cũng cười xòa: “chuyện viển vông”. Quyết tâm làm bằng được ông liền chạy đi vay 1 triệu đồng để mua gỗ, dây thừng, sắt thép, ròng rọc, con lăn, cừ tràm... về hì hục cưa xẻ, thiết kế mấy tháng trời... Ngay trong buổi khai trương, ông đã kéo thành công một chiếc xuồng (loại chở 7 - 8 người) qua đập ngon lành, tiền công chỉ 1.000 đồng. Hai tháng sau, ông cải tiến đường ray rộng hơn để kéo được ghe xuồng lớn, thuê hai ca trực (mỗi ca 4 người) với giá 1,8 triệu đồng/tháng. Hồi đó, bình quân mỗi ngày ông thu được 2 chỉ vàng (270.000 đồng/chỉ).

Cuối năm 1990, ông Hai Ô Rê lại tiếp tục làm một “cuộc cách mạng” cho cái cầu kéo kỳ lạ: xây kiềng đà bằng bêtông cốt thép thay cho cừ tràm để tăng độ chịu lực của đường ray gỗ, lắp động cơ làm lực kéo, nới rộng chiều ngang của đường ray lên 1,4m và lắp các bánh xe thép vào khung sắt chở miếng vỉ kéo ghe. Theo ông Hai, vốn đầu tư khoảng 80 triệu đồng nhưng chỉ làm ba tháng là gỡ vốn. Trong khi nói chuyện với ông, tôi nhẩm đếm trong vòng 1 giờ đã có gần 30 chiếc xuồng trườn lên cầu kéo, qua đập.

Từ khi phát minh ra cầu kéo kỳ lạ, ông Hai Ô Rê không nhớ đã có bao nhiêu người tìm đến học hỏi kinh nghiệm. Chỉ biết rằng ở vùng  bán đảo Cà Mau nơi nào có con đập ngăn cách sông rạch là nơi đó có mặt phát minh cầu kéo của ông.

Vừa cấy vừa ngẩng mặt lên trời

Ông Trạch và ông Việt bên máy cấy ĐA2

Ông Trạch và ông Việt bên máy cấy ĐA2

Khi chiếc máy cấy ĐA1 với năm tay cấy ra đời, một ngày có thể “làm xong” 1,2ha ruộng (thay thế 6 lao động thủ công), nhiều người nghĩ đó đã là thành công ngoài sức tưởng tượng của hai lãonông Lê Mậu Trạch và Lê Niên Việt ở thôn Tuyên Hóa, xã Đông Anh (Đông Sơn, Thanh Hóa). Nhưng vẫn chưa dừng lại ở đây, hai lão nông này còn quyết định cải tiến ĐA1 để nó hoàn thiện và đạt công suấtlớn hơn. Và người ta lại thấy hai lão già bên đống sắt vụn.

Chiếc máy cấy ĐA2 được vạch ra với chín tay cấy, chỉ cần một người điều khiển, công suất 2,5ha/ngày. Hơn một năm trời, hai lão nông mày mò đưa các động tác trong khi cấy: ra mạ, cắp mạ, nhả tay rút về và lùi vào thao tác của máy. “Phải nắm được nguyên lý cơ bản ấy để “bắt máy” làm theo”, ông Việt nói. Cuối cùng ĐA2 cũng ra đời với cơ chế hoạt động khá đơn giản: máy nổ chạy, kéo dây curoa làm cho chiếc cần cấy hoạt động, chín tay cấy được một bộ phận nằm trên cần cung cấp mạ.

Khi được hỏi mục đích làm chiếc máy, hai ông bày tỏ: “Người nông dân cả đời làm ruộng chỉ biết cắm mặt xuống đất. Tôi mơ một ngày bà con vừa cấy vừa có thể ngẩng mặt lên trời”. Ước mơ tuy đơn giản nhưng đã mở ra nhiều cơ hội trước mắt người nông dân, và điều quan trọng, nó chính là khát khao của những nông dân chân chất. Phải chưng, vì những điều ấy mà những công trình sáng chế của nông dân luôn có sức sống lâu bền?

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.