Những ngày cận Tết, nhớ lại trận dịch tả năm 1964
Bệnh tả có từ thời xa xưa tại Ấn Độ và giết chết nhiều người. Xuất phát từ ổ dịch đó, theo đường thương mại, dịch bệnh truyền nhiễm này lang dần sang châu Âu, châu Phi và toàn bộ châu Á. Trước thế kỷ thứ XIX, người ta quan niệm rằng nguyên nhân của bệnh tả là một loại “khí độc” (miasma) chưa rõ bản chất, phát sinh từ những nơi ô nhiễm như: cống rãnh, ao tù, đầm lầy, bãi rác, nghĩa trang… và dịch bệnh tả lây lan qua không khí.
Vào tháng 8 - 1854, một trận dịch tả lớn đã xảy ra ở Luân Đôn (nước Anh). Khi đó, BS John Snow nhận thấy phần lớn các trường hợp mắc bệnh và tử vong đều cư trú quanh một giếng bơm ở góc đường Broad & Lexington, ông đã chứng minh được bệnh tả lây lan qua nguồn nước sinh hoạt. Ông đưa ra giả thuyết về tác nhân “vi sinh vật” gây bệnh tả. Tuy nhiên, mãi đến năm 1884, giả thuyết của John Snow mới được chính thức công nhận khi nhà vi sinh học người Đức, Robert Koch, phát hiện vi khuẩn tả Vibrio cholerae.
Trong môi trường tự nhiên: vi khuẩn gây bệnh tả được tìm thấy trong cơ thể các phiêu sinh vật sống trong nước mặn ở cửa sông, ven biển. Súc vật không phải là ổ chứa vi khuẩn tả, người bệnh là nguồn lây lan duy nhất, không có người lành mang mầm bệnh. Nguồn lây lan quan trọng là từ người bệnh sang người lành và lây qua đường tiêu hóa.
Hiện nay, ở các nước Tây Âu, nhờ vệ sinh môi trường tốt, nhất là vệ sinh thực phẩm, dịch bệnh tả đã không còn xảy ra nữa. Ở các nước đang phát triển, nhất là tại khu vực có chiến tranh hoặc lũ lụt, bệnh tả vẫn còn là mối đe dọa trầm trọng cho sức khỏe cộng đồng.
Ở châu Á, dịch bệnh tả vẫn còn tồn tại dưới dạng dịch bệnh địa phương, thường xảy ra tại Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh …. Các ổ dịch lan rộng sang các nước Đông Nam Á, bằng đường bộ và tồn tại suốt một thế kỷ vừa qua. Môi trường thiên nhiên miền nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm, dân cư tập trung đông đúc, phong tục thói quen ăn uống…. là những điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh lây lan nhanh chóng.
![]() |
Dịch bệnh năm 1910 làm chết hơn 15 ngàn người ở đồng bằng sông Cửu Long.
Dịch bệnh năm 1915 - 1916: xảy ra lan rộng khắp cả nước.
Dịch bệnh năm 1926 - 1927: xuất phát từ Thái Lan, truyền sang Campuchia và Việt Nam . Các tỉnh miền Bắc chịu thiệt hại nặng nề nhất.
Dịch bệnh năm 1937 - 1938 làm chết hơn 11.800 người ở các tỉnh phía Bắc và hơn 4.000 người ở miền Trung.
Đặc biệt là dịch bệnh tả vào năm 1964 tại Sài Gòn – Chợ LỚn và các vùng lân cận, bắt đầu từ tháng 1, kéo dài đến tháng 7 với 9.119 người mắc và 566 người chết.
Diễn tiến dịch bệnh được ghi nhận như sau:
![]() |
Sau đó 5 ngày, có thêm 2 bệnh nhân bị nôn mửa và tiêu chảy, nhập viện tại bệnh viện Chợ Quán và đã tử vong ngay trong đêm nhập viện. Tại Bệnh viện Nhi Đồng, ngày 10 - 1 - 1964, cũng tiếp một trẻ bị tiêu chảy cấp và tử vong sau khi nhập viện một thời gian ngắn.
Ngày 15 - 1 - 1964, bệnh viện Nhi Đồng tiếp nhận thêm 3 trẻ bị tiêu chảy cấp và tử vong sau khi nhập viện vài giờ. Bác sĩ phụ trách khu 1 A của bệnh viện, nơi 3 trẻ điều trị, báo cáo khẩn cấp với ban giám đốc và các đồng nghiệp về các trường hợp tử vong nhanh chóng của trẻ bị tiêu chảy cấp. Tất cả mọi người lúc bấy giờ đều nghĩ ngay đến bệnh tả nhưng phân của các bệnh nhi này không được xét nghiệm.
Cùng ngày, bác sĩ phụ trách khu 3B cũng ghi nhận một trường hợp nhập viện với triệu chứng tiêu chảy cấp. Dấu hiệu lâm sàng và đặc điểm của phân giúp bác sĩ nghĩ nhiều đến bệnh tả. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng lơ mơ với biểu hiện mất nước nặng, mạch và huyết áp không đo được. Bệnh nhân được điều trị ngay với dịch truyền, thuốc vận mạch, kháng sinh và hydrocortison… Bệnh nhân qua được cơn nguy kịch sau 3 giờ hồi sức cấp cứu tích cực. Kết quả xét nghiệm phân được thực hiện tại Viện Pasteur cho biết có sự hiện diện của vi khuẩn tả nhóm Eltor. Vài ngày sau, số lượng bệnh nhân nhập viện tăng lên nhanh chóng ở bệnh viện Nhi Đồng và bệnh viện Chợ Quán. Dịch bệnh tả được chính thức công bố tại Sài Gòn và một số tỉnh lân cận.
Ngay khi đó, hai trung tâm được thành lập để tiếp nhận điều trị bệnh nhân tả: bệnh viện Nhi Đồng dành cho trẻ em và bệnh viện Chợ Quán dành cho người lớn.
Ban đầu, phác đồ điều trị cổ điển được áp dụng cho các bệnh nhân từ lúc dịch bệnh mới khởi phát (từ 7 – 1 – 1964). Đây là phác đồ đã được sử dụng từ vụ dịch năm 1927 trên thế giới. Tỉ lệ bệnh nhân chết rất cao, hơn 70%. Cho đến ngày 22 - 1 - 1964, một nhóm chuyên gia thuộc Đơn vị Nghiên cứu Y học số 2 Hải quân Mỹ (U.S. Naval Medical Research Unit No.1 - NAMRU - 2) được mời đến Sài Gòn để hỗ trợ điều trị với phác đồ mới, từng được áp dụng thành công trong việc điều trị bệnh tả tại bệnh viện Lazard - Manilla (Philippines). Với phác đồ mới, tỉ lệ tử vong giảm xuống rõ rệt, chỉ còn khoảng 4%.
Mặc dù áp dụng phác đồ điều trị mới cùng với các biện pháp phòng chống tích cực nhưng dịch bệnh vẫn kéo dài gần 6 tháng mới hoàn toàn dập tắt được.










