Nhủi cá đồng xa
Cho đến bây giờ, Cụ Lê Văn Hiến, 65 tuổi ( Binh Kỳ, Hòa Quý, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) vẫn giữ được cái nhủi trên dàn bếp nhà mình. Cụ Hiến bảo: Trong các dụng cụ đánh bắt cá như lờ, tay lưới, đó, cần câu… thì nhủi là một dụng cụ độc đáo. Nhủi gồm hai cái cán bằng ngọn tre chéo nhau, giữa hai ngọn tre là một tấm “sáo” bện bằng những cọng tre vót nhỏ, đầu cuối là một miếng gỗ có lưới mỏng. Khi nắm hai cán nhủi đẩy, nước sẽ vào nhủi và thoát ra phía những cọng tre, chỉ còn lại cá hoặc những vật lẫn trong nước…
Theo cụ Hiền, nhủi cá có hai loại: Nhủi tay là loại nhủi ngắn, có chiều dài từ đầu cán đến lưới khoảng 1,6m. Bề ngang lưỡi nhủi dài 0,8m, chỗ cao nhất 0,4m. Các tép của rẻ nhủi bện thưa hơn, dùng để nhủi cá ở mặt ruộng khi mực nước cạn (10 - 30cm). Còn nhủi đụt thì dài và lớn hơn. Khi nhủi, người ta gắn thêm một cái phao bằng hai hoặc ba ống tre khô dưới lưới nhủi để không cho nhủi chìm. Cuối thân nhủi là chỗ lắp một cái túi để tép đi vào… Nhủi đụt dùng nhủi tép ở dưới sông, ao đầm, nơi có độ sâu từ 0,8 đến 1m nước.
Lưới của nhủi phải làm bằng gỗ nhẹ và dai như thầu đâu hoặc gỗ ngo. Rẻ nhủi phải chọn loại tre mở, mỗi cây chỉ lấy được vài lóng đoạn giữa. Cán nhủi là 2 ngọn tre chắc và đặt dài khoảng 1,6m. Sau khi làm lưới, vót rẻ nhủi, cưa cán xong, muốn được lâu bền thì ngâm nhủi dưới bùn khoảng dưới 1 tháng mới mang lên ráp và bện rẻ bằng dây cước. Dưới thân nhủi, người ta định vị các vòng bằng mây hoặc tre vót tròn và bện các rẻ nhủi vào hai “ngọn tre”, đuôi của các rẻ nhủi là một tấm đan vỉ thưa lỗ để ngăn cá ở lại khi đẩy nhủi.
Khoảng cách giữa các rẻ nhủi dày hay thưa tuỳ theo muốn bắt loại cá lớn hoặc nhỏ. Khe nhủi thưa, mau thoát nước, đẩy nhẹ nhưng cá con không giữ lại được. Ngựơc lại, khe nhủi hẹp, đẩy nặng, mau mệt vì lực cản nước, rác lớn, bù lại sẽ bắt được cá nhỏ. Đi đôi với cái nhủi là cái giỏ xoáy (đan xoáy) có cổ thắt lại và miệng giỏ loe ra rộng để bỏ cá vào.
Cụ Hiến ngùi ngùi tiếc rẻ: Đồng ruộng bây giờ nhiễm hóa chất và đánh điện nhiều quá, nguồn hải sản đang cạn kiệt dần, nhủi không được, bà con bỏ dần nên bây giờ như bị… “tuyệt chủng”.
Nguồn: KH&ĐS Chuyên đề NTDTTS&MN Số 2 27/10/2006








