Nhân mùa giải Nobel: Nhà khoa học đoạt giải Nobel phải là người như thế nào?
Trong những ngày đầu tháng 10, báo chí thường tập trung sự chú ý vào việc công bố danh sách những người đoạt giải Nobel trong các lĩnh vực khoa học như y học, vật lý và hoá học. Uy tín của giải chủ yếu là kết quả của quá trình xét duyệt rất thận trọng danh sách các ứng viên. Quá trình được thiết kế sao cho ít bị ảnh hưởng bởi áp lực bên ngoài nhất… Chẳng hạn, đối với giải Nobel về hoá học thì những người bỏ phiếu đề cử thường là thành viên Viện Hàn lâm khoa học Thuỵ Điển, những người từng được giải Nobel và những giáo sư hoá học thuộc các quốc gia vùng Xcandinavi. Mỗi năm, Uỷ ban xét giải Nobel còn mời thêm những nhà khoa học danh tiếng, đại diện cho tất cả các trung tâm khoa học lớn trên trái đất. Mỗi lần bình chọn có tới 2000 ứng viên, cho nên lúc đầu Uỷ ban xét giải thưởng chọn ra 250 – 300 ứng viên cho lĩnh vực hoá học.
Những người tham gia bầu chọn phải viết cam kết không tiết lộ danh sách người được đề cử, nhưng ít khi họ làm đúng cam kết. Nếu xem được e-mail của họ thì chắc chắn sẽ thấy rằng ngay sau khi gửi thông báo đến Stockhom, họ cũng đồng thời thông tin cho người được đề cử. Như vậy, việc bảo mật thông tin đã không còn là điều thiêng liêng trong môi trường khoa học nữa.
Nếu để ý rằng chỉ có khoảng một phần trăm số người được đề cử là được nhận giải Nobel, thì ta sẽ thấy là bản thân hành động đề cử không phải là điều gì đặc biệt. Đáng lưu ý hơn là cuộc họp kín của một nhóm chuyên gia, những người có nhiệm vụ thuyết phục Uỷ ban xét giải Nobel rằng lĩnh vực khoa học và những ứng viên do họ giới thiệu làm đại diện, cần được chọn lựa để trao giải. Thông thường các chuyên gia có vẻ “kín mồm kín miệng” hơn những người bỏ phiếu đề cử, nhưng họ cũng có khả năng “thêu dệt” không ít chuyện.
Chúng ta hãy thử xây dựng hình mẫu nhà khoa học được giải Nobel về hoá học, dựa trên những gương mặt được giải này trong vòng 20 gần đây. Chúng ta cũng tạm đặt giả thiết là đối với các nhà khoa học được giải Nobel về vật lý hoặc y học, hình mẫu cũng tương tự.
Trong số những người được giải Nobel trong 20 năm gần đây, nhiều người là dân di cư hoặc có bố mẹ là dân di cư. Một trong những trường hợp đặc biệt nhất là một nhà khoa học được giải Nobel, sinh trưởng ở Nam Triều Tiên trước đây (nay là Hàn Quốc), và có bố là người Na Uy, mẹ là người Nhật Bản.
Người được giải Nobel hiện đại không phải là nhà khoa học cách biệt với mọi người và tự mày mò nghiên cứu. Trái lại, ông ta là người lãnh đạo một nhóm nghiên cứu lớn, luôn đấu tranh đòi kinh phí cho nghiên cứu khoa học và quảng bá thành công của cả nhóm.
Có những nhà khoa học khi nhận giải Nobel mới chỉ là tác giả của hơn chục bài báo khoa học. Tuy nhiên, thông thường một người đoạt giải Nobel đã từng công bố hơn 400 công trình khoa học; có người còn công bố con số kỷ lục là trên 1300 công trình.
Số phận các nhà khoa học sau khi nhận giải Nobel diễn ra như thế nào? Một vài người quyết định về hưu sớm, không tham gia các hoạt động khoa học và thẳng thừng từ chối các buổi hội thảo. Hầu hết các nhà khoa học sau khi nhận giải Nobel tỏ ra “hụt hơi” trong các công trình nghiên cứu. Hiện tại không có những cá nhân xuất chúng như Marie Curie, John Bardeen hay Frederick Sanger - những người hai lần nhận giải Nobel.
Nguồn: Nauka; gdtd.com.vn, số 119, 05/10/2006








