Nhận diện những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức được xác định chính là cánh cửa mở ra cho các nền kinh tế đang phát triển tiếp cận và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển nếu biết đón bắt và tận dụng cơ hội. Ngược lại, kinh tế tri thức cũng tạo ra thách thức lớn hơn bao giờ hết đối với các nước đang phát triển, đó là nguy cơ tụt hậu, đó là khoảng cách ngày càng gia tăng về trình độ phát triển so với các nước phát triển. Hiện nay, hầu hết các nước phát triển, nhiều nước đang phát triển và một số nước kém phát triển đã chấp nhận kinh tế tri thức như một con đường phát triển tất yếu.
Đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước nêu lên các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức dưới các góc độ khác nhau, có thể trình bày ở những điểm dưới đây:
Công nghệ cao, công nghệ thông tinvà truyền thông được ứng dụng rộng rãi và đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng rộng rãi và theo xu hướng ngày càng sâu vào mọi lĩnh vực. Hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội đều dựa trên cơ sở của công nghệ thông tin và truyền thông thông qua mạng thông tin điện tử, đều được tinhọc hoá, hay số hoá. Công nghệ thông tin và truyền thông không chỉ là một lĩnh vực khoa học - công nghệ, một ngành kinh tế - kỹ thuật mà trở thành phương tiện chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, động lực quan trọng cho sự phát triển của tất cả các ngành, các lĩnh vực. Xã hội thông tinlà tiền đề cho nền kinh tế tri thức. Thương mại điện tử, chính phủ điện tử, làm việc từ xa, các văn phòng ảo, các tổ chức ảo, chữa bệnh trên mạng (chữa bệnh từ xa), giáo dục từ xa... đang làm thay đổi hết sức sâu sắc cách thức sản xuất kinh doanh, cách thức tổ chức quản lý theo hướng tăng tốc độ, năng suất, chất lượng và hiệu quả. Mạng Internet làm cho thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin không biên giới làm cho hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động liên kết mang tính toàn cầu. Trong một "xã hội mạng", các hoạt động sản xuất anh doanh ngày càng sôi động, nhanh nhạy, quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trực tiếp hơn, có thể dễ dàng thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng; hình thức tổ chức sản xuất trở nên linh hoạt, cơ động hơn; sự liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa sản xuất với cung ứng nguyên liệu, với thị trường tiêu thụ trở nên chặt chẽ, gắn bó hơn. Chi phí giao dịch sẽ giảm đi rất nhiều do thương mại điện tử có khả năng kết nối trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng, dẫn đến giảm thiểu nhiều khâu trung gian giữa các bên mua và bán. Kết quả quan trọng nhất của việc phát triển thương mại điện tử là sự hạ thấp những rào chắn và chi phí đi vào thị trường.
APEC đã tổng kết rằng internet đã làm cho giá thành trong ngành sản xuất ô tô giảm 12-15%, trong ngành xây dựng giảm 7-8%, do chi phí cho việc cung ứng linh kiện từ khắp nơi trên thế giới đã giảm đi đáng kể (chi phí cho lập một đơn hàng giao dịch qua internet giảm đi 10 lần). Thương mại điện tử đã làm lợi cho nền kinh tế Mỹ hàng nghìn tỷ USD. Tổ chức quản lý qua mạng điện tử nhanh nhạy hơn, hiệu lực hơn, các quyết định chính xác hơn, thúc đẩy phát triển dân chủ, công khai, minh bạch. Chính phủ điện tử kết hợp với cải cách hành chính sẽ làm tăng công năng và tác dụng các quyền và trách nhiệm của người dân sẽ giúp loại trừ được nạn phiền nhiễu, nạn tham ô, hối lộ... Phát triển hình thức học tập từ xa (giáo dục điện tử)... tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tập suốt đời, không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng; thúc đẩy phát triển xã hội học tập. Chữa bệnh từ xa tạo điều kiện cho mọi người, nhất là những nơi xa xôi hẻo lánh có thể tiếp cận dễ dàng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chất lượng tốt, tiếp xúc được với bác sĩ giỏi, trong đều trường hợp cấp cứu khỏi phải đi xa...
Mạng thông tin còn là môi trường rất thuận lợi để trao đổi các ý tưởng mới, giúp nâng cao năng lực con người, là môi trường lý tưởng nhất cho phát triển năng lực sáng tạo, thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội. Mạng thông tin trở thành yếu tố của kết cấu hạ tầng quan trọng nhất của nền kinh tế. Nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là kinh tế thông tin.
Nền kinh tế tri thức chuyển dịch cơ cấu theo hướng gia tăng nhanh các ngành có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
Đó là các ngành công nghiệp thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ...; mặt khác, do quá trình sản xuất hàng hoá trực tiếp được tự động hoá ở trình độ ngày càng cao, cho nên số người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm trong các nhà máy giảm đi rất nhiều, trong khi đó số người làm việc ở văn phòng tăng lên, thực chất các văn phòng này là những trung tâm, đầu mối xử lý, phân tích thông tin và biến những thông tin đó thành yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ giá trị gia tăng do công nghệ cao tạo ra trong công nghiệp chế tạo đang tăng nhanh. Hiện nay, ở Mỹ và nhiều nước phát triển, tỷ lệ đó đã đạt khoảng 25-30%.
Xem xét cơ cấu kinh tế theo ba khu vực (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) thì xu thế phát triển kinh tế tri thức được thể hiện qua sự dịch chuyển cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành công nghiệp và nông nghiệp. Trong mấy thập kỷ qua, cơ cấu của nền kinh tế thế giới đã dịch chuyển như sau (xem Bảng 1.1):
Bảng 1.1. Cơ cấu kinh tế trong GDP của toàn cầu
Tỷ lệ trọng của các khu vực trong GDP | 1965 | 1980 | 1999 | 2003 | 2007 |
Tỷ lệ nông nghiệp (%) | 10 | 7 | 5 | 4 | 2 |
Tỷ lệ công nghiệp (%) | 40 | 37 | 34 | 33 | 26 |
Tỷ lệ dịch vụ (%) | 50 | 56 | 61 | 63 | 72 |
Tri thức khoa họcvà công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là lực lượng sản xuất trực tiếp và quyết định.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức, trí tuệ con người và kỹ năng lao động trở thành lợi thế phát triển lớn nhất, quyết định nhất. Khoa học công nghệ được thừa nhận là lực lượng sản xuất trực tiếp và quyết định tiến trình phát triển kinh tế. Việc tạo ra của cải và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chủ yếu dựa vào sử dụng tri thức mới, công nghệ mới. Hoạt động quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức là việc tiếp nhận, sáng tạo, quảng bá và sử dụng tri thức mới trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Giá trị sản xuất được tạo ra nhiều nhất là từ tri thức kể cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Khi sử dụng nhiều công nghệ mới, tri thức quản lý mới, một hecta đất nông nghiệp có thể cho giá trị gấp nhiều lần mà không cần tăng chí phí vật chất.
Sự phát triển ngày càng dựa nhiều hơn vào tri thức cũng được thể hiện rõ nét ở sự gia tăng nhanh của năng suất lao động. Trong nửa thế kỷ qua (1960-2010) năng suất lao động ở Mỹ tăng 5,4 lần, ở Nhật tăng 12,1 lần, Đan Mạch 5,6 lần, Hà Lan 8 lần còn ở Thụy Điển là tăng 8,7 lần. Năng suất lao động tại Mỹ tăng không cao vì tính tại thời điểm 1960 thì nước Mỹ đã có xuất phát điểm về năng suất lao động cao hơn các quốc gia kể trên, tuy nhiên ở Nhật, Đức, Thụy Điển, Hà Lan với xuất phát điểm về năng suất lao động thấp nhưng nhờ tiến trình đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức đã tạo lập được tốc độ tăng năng suất lao động rất cao, đuổi kịp và vượt Mỹ. Hiện tượng Hàn Quốc cho thấy những năm 1985 năng suất lao động mới chỉ là 23.0 (điểm quy đổi) thì năm 2008 là 159,9 điểm quy đổi và được xem như quốc gia có năng suất lao động tăng cao và vượt những nước phát triển khác.
Cấu trúc mạng lưới toàn cầu
Nền kinh tế thế giới hiện đại đang được cấu trúc thành một mạng lưới toàn cầu. "Mạng" là thuộc tính phân biệt chủ yếu khi so sánh hệ thống này với hệ thống trước. Về bản chất, hệ thống mạng được cấu trúc "ngang", khác căn bản với nền kinh tế trước đây vận động trong cấu trúc chủ đạo là hình tháp (cấu trúc "dọc"). Đây là cơ sở để nói đến tính "cách mạng" hay bước ngoặt lịch sử của quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức đang diễn ra.
Mạng lưới toàn cầu của nền Kinh tế tri thức được kiến tạo bởi: Các "chất liệu" phát triển cơ bản khác trước, những công cụ mới, ví dụ máy tính, mạng viễn thông, mạng lntemet, các loại vật liệu mới, công nghệ "gen", thương mại điện tử… Những nhân vật mới, tầng lớp các nhà kỹ trị đóng vai trò quyết định, người lao động trí thức, các "siêu" công ty xuyên quốc gia... vận động theo nguyên lý mới. Hệ thống phân công lao động quốc tế toàn cầu thay cho hệ thống phân công lao động quốc gia. Đây là một cấu trúc mới về nguyên tắc. Nó vận động theo những quy tắc sản xuất thương mại và tài chính mới trong không gian toàn cầu hóa. Đặc trưng của không gian toàn cầu hóa là thời gian ngắn lại, không gian thu hẹp và các đường biên giới mất dần. Sự thay đổi cơ cấu quyền lực trong nền kinh tế, hình thái phát triển dựa trên quan hệ lệ thuộc - cai trị của các nền kinh tế trước đây được thay thế bằng quan hệ tham dự - bình đẳng về chức năng cơ cấu của các thành tố. Tuy nhiên, sự không thuần nhất cấu trúc của nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu. Trong mạng lưới kinh tế toàn cầu, vẫn tồn tại những mảng, vùng cấu trúc (khu vực quốc gia, ngành) có trình độ phát triển thấp xa các mảng, vùng khác. Do đó, sự bình đẳng về nguyên tắc của các bộ phận cấu trúc mạng không có nghĩa là sự bình đẳng trên thực tế giữa chúng tại từng thời điểm xác định và trong những quan hệ xác định.
Ngày nay, một chiếc máy tính hay điện thoại, hay một chiếc xe hơi có thể được lắp ráp tại Trung Quốc, mà trang thiết bị và linh kiện điện tử động cơ thì được chế tạo tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu, Đĩa cứng máy tính thì được lắp ráp tại Việt Nam. ..Thiết kế của những con chíp, trang thiết bị,...thì xuất phát từ Châu Âu, Mỹ, Nhật. Những thành phẩm chế tạo tại Trung Quốc, Việt Nam lại xuất khẩu trở lại các quốc gia mà trước đó là địa chỉ xuất xứ của các trang thiết bị rời, linh kiện....
Tốc độ biến đổi rất nhanh của công nghệ trở thành các ngành sản xuất.
Trong nền kinh tế tri thức, phát minh, chế tạo và sản xuất ra các công nghệ mới trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất. K. Marx đã dự báo: "Phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích". Công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc tạo ra năng suất, tăng trưởng và việc làm. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất công nghệ (cũng có thể gọi là doanh nghiệp tri thức) phát triển rất nhanh. Trong các doanh nghiệp đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất. Từ thực tế đó, ở các nước đã xuất hiện các khu công nghệ cao tập trung các doanh nghiệp nghiên cứu và sản xuất công nghệ mới. Đây là nơi biến các tri thức mới, các phát minh khoa học thành công nghệ và thành sản phẩm, đó là những "hạt nhân" của nền kinh tế tri thức.
Khu công nghệ cao đầu tiên trên thế giới và tiêu biểu nhất là thung lũng Silicon ở Mỹ. Đó là cái nôi của công nghệ cao trên thế giới, cái nôi của Internet. Hơn 40% công nghệ cao trên thế giới ngày nay ra đời từ thung lũng Silicon. Nửa thế kỷ qua, thung lũng Silicon phát triển rất nhanh, đến nay tại đây đã có hàng ngàn công ty, các công ty hàng đầu thế giới về công nghệ thông tin phần lớn hình thành và phát triển từ thung lũng này. Giá trị sản lượng chỉ tính riêng tại thung lũng Silicon năm 2000 đã lên tới hơn 400 tỷ USD. Có rất nhiều công ty từ những nguồn vốn sở hữu ban đầu rất ít ỏi, chỉ sau khoảng năm, mười năm đã có hàng chục tỷ USD. Công ty Cisco là một ví dụ: thành lập năm 1988, xuất phát từ sáng chế về router của hai vợ chồng nhà giáo đại học Stanford, Cisco đã nhanh chóng trở thành công ty đứng đầu về công nghệ mạng, giá trị của công ty năm 1998 (sau 10 năm thành lập) đã lên tới 72 tỷ USD. Thung lũng Silicon phát triển được nhờ có một chế độ quyền sở hữu tài sản tri thức bảo đảm có thể phát huy đầy đủ tính tích cực sáng tạo của con người. Tại đây, người lao động được mua cổ phiếu với giá cả ấn định, với một số lượng nhất định cổ phần mới của công ty, trong một thời kỳ nhất định. Đến cuối kỳ, lợi ích hoặc rủi ro của người lao động được biểu hiện dưới hình thức giá cổ phiếu lên cao hoặc xuống thấp gắn liền với những cố gắng nghiên cứu khoa học của người lao động trong khoảng thời gian đó. Ngoài ra, còn nhiều biện pháp kích thích nhân tài khác như tham gia cổ phần bằng kỹ thuật, chia và hưởng lợi ích theo chức vụ, theo bằng phát minh sáng chế.
Đầu tư mạo hiểm có xu hướng gia tăng mạnh trong nền kinh tế tri thức
Do sản xuất công nghệ trở thành ngành sản xuất cơ bản nhất, "sản xuất" ra các ngành khác, đem lại lợi nhuận nhiều nhất, cho nên trong giai đoạn hiện nay, chính phủ và các nhà doanh nghiệp ở nhiều nước đều rất chú trọng đầu tư cho việc ươm tạo, phát triển các công nghệ mới và các doanh nghiệp khoa học - công nghệ, doanh nghiệp sáng tạo (start-up). Loại hình đầu tư kiểu mới này có rất nhiều rủi ro, vì hoạt động nghiên cứu phát triển các sáng chế mới, sản phẩm mới có thể thành công mà cũng có thể thất bại, nhưng chỉ cần tạo ra và đưa vào ứng dụng một sáng chế có giá trị đối với quá trình đổi mới, thì lợi ích do nó đưa lại sẽ gấp rất nhiều lần chi phí đã bỏ ra.
Tạo ra tri thức là rất quan trọng, nhưng việc đưa tri thức đó vào các lĩnh vực của đời sống để tạo ra sự đổi mới lại càng quan trọng hơn, có như thế thì tri thức mới có thể biến thành giá trị, trở thành nguồn vốn chủ yếu của sản xuất. Đó là quá trình chuyển giao tri thức. Chuyển giao tri thức thông qua nhiều con đường, như đào tạo để những người đã qua đào tạo sử dụng tri thức trong quá trình hành nghề (bác sĩ chữa bệnh, kỹ sư xây dựng công trình ...),thương mại hoá các sáng chế và các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, v.v… Thế nhưng các trường đại học, các viện nghiên cứu thường vẫn rất khó khăn về nguồn vốn để biến những ý tưởng sáng tạo, những kết quả nghiên cứu của mình thành sản phẩm; nhiều khi muốn làm ra sản phẩm mẫu cũng không dễ dàng do thiếu vốn đầu tư.
Vốn đầu tư mạo hiểm sinh ra chính là để đáp ứng nhu cầu nhanh chóng thương mại hoá các kết quả nghiên cứu khoa học, các ý tưởng mới, do đó đầu tư mạo hiểm có vai trò to lớn trong việc đưa nhanh khoa học vào thực tế sản xuất kinh doanh; và như vậy, đầu tư mạo hiểm cũng là động lực cho nghiên cứu, sáng tạo, nâng cao năng lực khoa học công nghệ. Thương mại hoá một cách lành mạnh các hoạt động nghiên cứu là quá trình đưa các sản phẩm khoa học có khả năng ứng dụng thương mại từ phòng thí nghiệm đến thị trường. Thông thường, người ta hiểu thương mại hoá chỉ là nói về công nghệ. Đó là một sai lầm: những nghệ thuật sáng tạo, các khoa học xã hội cũng có tiềm năng lớn dẫn tới những ngành công nghiệp có lợi nhuận cao.
Năm 2001 Scotland đã thu được từ các ngành công nghiệp sáng tạo khoảng 5 tỷ bảng Anh, bằng 4% GDP và đã tạo thêm 100.000 chỗ làm việc. Các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm ra đời vào những năm 70, phát triển mạnh từ đầu những năm 90 thế kỷ XX, đến năm 2004, trên toàn thế giới đã có trên 4000 doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, vốn đầu tư mạo hiểm toàn thế giới đạt khoảng 50 tỷ USD. Để cung cấp các nhà kinh doanh đầu tư mạo hiểm, Viện đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Intitute) ở Atlanta (Mỹ) đã được thành lập năm 1974. Khi thành lập dự kiến vòng đời của Viện chỉ khoảng 2 năm, thế nhưng đến nay đã qua 30 năm tồn tại và Viện đã đào tạo được hơn 4.000 chuyên gia thành công trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Chương trình giảng dạy của Viện nhằm vào tăng cường sự hiểu biết của người học về toàn bộ quá trình đầu tư vốn rủi ro, chú trọng nhiều đến phương pháp đánh giá, xử lý các yếu tố khó định lượng, các tác động do công nghệ mới gây ra trong khi đưa ra quyết định đầu tư. Chương trình được cập nhật bổ sung hằng năm, phản ánh kịp thời những thay đổi trong các chiến lược đầu tư, điều kiện và môi trường của ngành công nghiệp rất năng động này. Làm được như vậy là nhờ Viện có quan hệ chặt chẽ với những người lãnh đạo Hiệp hội đầu tư doanh nghiệp nhỏ và Hiệp hội các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm.
Đặc tính, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức thay đổi căn bản.
Để phát triển kinh tế tri thức, phải có lực lượng lao động được đào tạo tốt, có đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết cho ngành mình làm việc, không ngừng nâng cao kiến thức và kỹ năng, thích nghi được với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, dễ dàng chuyển sang những ngành nghề mới. Tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh tế, tạo ra giá trị gia tăng mới của nền kinh tế chủ yếu là do đội ngũ nhân lực này. Lực lượng công nhân trí thức tăng nhanh, đó là những người làm việc bằng trí óc để trực tiếp làm ra sản phẩm, như những lập trình viên, những nhà thết kế công nghệ, thiết kế sản phẩm trên máy tính, những người đều khiển máy móc đòi hỏi có trình độ tri thức nhất định... Trong các ngành công nghiệp dịch vụ dựa vào công nghệ cao, phần lớn những người lao động là công nhân tri thức. Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về công nhân tri thức. Có nước coi những người làm công tác quản lý, những viên chức chính phủ cũng là công nhân tri thức. Hiện nay, ở các nước OECD, công nhân tri thức chiếm khoảng 60-70% lực lượng lao động (tùy theo cách xác định thế nào là công nhân trí thức). Ở các nước Đông Nam Á đang phát triển nhanh như Malaysia, Thái Lan, Philippin, tỷ lệ công nhân tri thức trong tổng số lao động xã hội nằm trong khoảng 20 - 25%. Trong môi trường của nền kinh tế tri thức, hệ thống giáo dục truyền thống buộc phải thay đổi, chuyển sang hệ thống học tập suốt đời. Tri thức ngày nay phát triển rất nhanh chóng và cũng trở nên lạc hậu nhanh chóng. Cho dù nhà trường có cố gắng trang bị những kiến thức mới nhất, thì sau khi sinh viên ra trường một vài năm, các kiến thức đó cũng trở nên lạc hậu. Xu hướng này cho thấy sự cần thiết của việc học tập suốt đời. Mỗi người làm việc trong nền kinh tế tri thức phải biết cách tiếp cận những thông tin mới nhất mà họ cần cho một nhiệm vụ cụ thể của mình, biết lấy nó ở đâu, biết làm như thế nào, và biết cách khai thác, sử dụng các thông tin ấy để sáng tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định trước. Hệ thống giáo dục mới phải chú trọng bồi dưỡng cho người học năng lực, kỹ năng ấy. Không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng, thích nghi nhạy bén với sự phát triển và thay đổi nhanh chóng của tri thức - đó là yêu cầu cơ bản nhất đối với nguồn nhân lực trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi mọi người phải thường xuyên học tập, học tập suốt đời, không ngừng nâng cao kỹ năng, phát triển nghề nghiệp liên tục. Chỉ có như vậy mới có thể truy cập, khai thác kho thức toàn cầu, sáng tạo ra và vận dụng tri thức mới, biến tri thức thành giá trị. Hiện nay, ở các nước phát triển, tỷ lệ người lao động tham gia chế độ học tập thường xuyên thường đạt tỷ lệ khoảng 35 - 40%.
Mọi người học suốt đời, không ngừng phát triển trí thức, nâng cao kỹ năng, phát triển sức sáng tạo, thích nghi với sự phát triển, thúc đẩy đổi mới. Xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức. Với sự bùng nổ thông tin và liên tục đổi mới công nghệ, đổi mới tri thức, mô hình giáo dục truyền thống (đào tạo xong rồi ra làm việc) không còn phù hợp nữa, mà phải chuyển sang mô hình đào tạo suốt đời: đào tạo cơ bản, ra làm việc và tiếp tục đào tạo, vừa đào tạo vừa làm việc. Hệ thống giáo dục trong nền kinh tế tri thức phải đảm bảo cho mọi người bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng có thể học tập được. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời. Đầu tư cho giáo dục và cho khoa học chiếm tỷ lệ rất cao - nói chung đầu tư vô hình cao hơn đầu tư hữu hình. Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Nhờ có mạng Intemet, hình thức giáo dục xa qua mạng (e-learning) rất phát triển. Hiện nay, hầu hết các trường đại học trên thế giới đều có hệ thống e-learning, có trường đã áp dụng e-learning cho toàn khoá học, từ lúc tuyển sinh đến khi tốt nghiệp, sinh viên không phải đến trường. E-leaming phát triển, tạo điều kiện cho việc mở rộng hệ thống học tập thường xuyên, suốt đời, mọi người bất cứ ở đâu, lúc nào cũng có thể học tập nâng cao kiến thức, kỹ năng. Số người được học tập, đào tạo và được cấp chứng chỉ ngay trên mạng ngày một nhiều. Không ít trong số họ từ chỗ là người thụ động sử dụng lnternet đã và sẽ trở thành nhà văn, nhà xuất bản, nhà báo... Những thông tin trên mạng đã trở thành "không khí", "bầu khí quyển" trong nhiều trường đại học - cho cả người dạy và người học. Chính phủ Mỹ hiện nay tập trung đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực giáo dục dựa vào mạng lnternet, coi đó là cơ sở cho một nền giáo dục công nghệ cao. Hiện nay hầu như tất cả các trường học ở Mỹ đã nối mạng và sử dụng mạng. Người học có thể ghi tên mình vào các khoá học, chương trình, giờ học thích hợp trên mạng không lệ thuộc vào vị trí địa lý, tuổi tác... Họ có thể đăng ký gặp riêng các giáo sư qua địa chỉ điện tử trên mạng; có thể tiếp cận những kho tàng tài liệu giáo dục, đăng ký mượn sách từ các thư viện ở cách xa họ cả nửa vòng trái đất. Để đạt được những mục tiêu giáo dục như trên ngoài việc đưa ra những chiến lược giáo dục phù hợp với mình, thì một điều không thể thiếu được là chính phủ những nước này không ngừng gia tăng chi phí cho giáo dục tính cả trên tỷ trọng ngân sách và bình quân đầu người. Bảng 1.3 dưới đây cho ta thấy chi tiêu giáo dục ở một số nước.
Bảng 1.3 Tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục một số nước năm 2007
Tên quốc gia | Tỷ trọng chi phí cho giáo dục | |
% GDP | % Chi tiêu Chính phủ | |
Nhật Bản | 3,5 | 9,5 |
Singapore | 2,9 | 15,3 |
Thái Lan | 3,9 | 20,9 |
Pháp | 5,6 | 10,6 |
Đức | 4,4 | 9,7 |
Phần Lan | 6,1 | 12,6 |
Đan Mạch | 8,3 | 15,5 |
Hà Lan | 5,6 | 12,0 |
Mỹ | 5,7 | 14,8 |
Tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục ở một sẽ nước nước thể hiện mức độ đầu tư của chính phủ cho giáo dục tuy nhiên con số bình quân đầu người quy đổi theo ngang giá sức mua (PPP) mới đánh giá được thực chất mức độ chi tiêu cho giáo dục mà mỗi người dân nhận được. Tuy nhiên hình 1.4 dưới đây cho thấy mức độ đầu tư giáo dục không ngừng tăng cao của Mỹ (quốc gia có trình độ giáo dục và nền kinh tế tri thức phát triển).
Tóm lại, kinh tế tri thức là một nấc thang phát triển cao của nền kinh tế, với đặc điểm trong nền kinh tế đó giá trị được làm ra chủ yếu xuất phát từ tri thức của loài người chứ không phải từ thế giới tự nhiên. Để nền kinh tế Việt Nam phát triển một cách bền vững, nhất thiết phải có chiến lược phát triển kinh tế tri thức một cách toàn diện trong thời gian tới và việc nhận diện những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức cũng là sự cần thiết. Những đặc trưng đó bao gồm những nét chủ yếu sau: Công nghệ cao, công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng rộng rãi và đóng vai trò đặc biệt quan trọng; Nền kinh tế tri thức chuyển dịch cơ cấu theo hướng gia tăng nhanh các ngành có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; Tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là lực lượng sản xuất trực tiếp và quyết định...