Nguyễn Văn Đạo suốt đời tự học, tự nghiên cứu
Thế hệ Nguyễn Văn Đạo là thế hệ những học sinh kháng chiến như Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Phan Đình Diệu, Đào Vọng Đức, Hoàng Hữu Đường, Phạm Duy Hiển, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Cao Xuân Hạo, Hà Minh Đức, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Huệ Chi..., những người mà lòng khát khao hiểu biết và ý chí vượt khó vươn lên đã được thử thách, luyện rèn dưới mái trường chống Pháp cột tre, vách đất, giấy nứa, đèn dầu, áo nâu, cơm độn...
Mỗi lòng người như nước suối trong
Nguyễn Văn Đạo là nhà khoa học nhưng tâm hồn ông giàu cảm xúc. Nói chuyện với học sinh, sinh viên, ông tâm sự: "Hạnh phúc của con người ta đâu phải chỉ là ô-tô, nhà lầu, mà còn là những giá trị tinh thần trong sạch, cao thượng, không bạc tiền nào mua nổi...". Rồi ông kể về thời trung học "xa xưa" của mình: "Tôi đã thăm nhiều ngôi trường lộng lẫy, đã ngồi trong nhiều giảng đường đại học nguy nga, thế nhưng trường Hùng Vương cột tre, vách nứa giữa rừng cọ Hạ Hoà, Phú Thọ, giáp Tuyên Quang, bên "sông Thao hiền từ cuộn đỏ" vẫn để lại trong lòng tôi những kỷ niệm đằm thắm nhất. Tôi đã sống ở nhiều nơi, đã đặt chân khắp chốn Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc, thế nhưng những ngày học tiểu học, trung học ở vùng quê Đông Dương, Yên Luật, Văn Bán vẫn là những ngày để lại trong ký ức của tôi những dấu ấn không thể phai mờ... Tôi yêu trường tôi nơi rừng sâu núi thẳm, yêu những làng quê nghèo khó đã cưu mang tôi trong những năm kháng chiến gian nan. Tình yêu thắm thiết đó khác hẳn tính hiếu kỳ "hoài cổ" của đám khách du lịch phương Tây thừa tiền, thích thú chui xuống những hang động giả, hay dạo chơi dăm ba ngày giữa chốn núi rừng hoang vắng nhưng vẫn được ngủ trong phòng máy lạnh, thưởng thức những món ăn, thức uống tuyệt ngon! Cuộc đời học sinh của chúng tôi dạo ấy quả thật là nghèo, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, học dưới ánh đèn dầu không đủ sáng, nhưng ai nấy lòng đầy háo hức, luôn miệng hát ca, tin chắc vào ngày mai tươi sáng, náo nức đón chờ "mai mốt rạng đông"...
"Mỗi lòng người như nước suối trong", đó là nét đẹp diệu kỳ của một thời kháng chiến. Các bạn học sinh thời ấy sống trong nhà dân, không phải trả tiền nhà, mà được mượn giường phản, bàn ghế, nồi niêu, bát đĩa... Nhưng các bạn có ý thức "dân vận": quét nhà, "vác nước", kèm cặp đám em nhỏ học bài... Mưa dầm dề dai dẳng. Đường đồi đỏ quạch, dẻo quánh. Tụt dép lốp, đi chân đất, vác ống bương nước giếng làng trên vai, co mười ngón chân lại để bám chặt lấy mặt đường nhão nhoét cho khỏi trượt ngã bổ nhào lúc trở về nhà. Chủ nhật, vào rừng, cầm cái sào dài móc những tàu lá cọ mục trên cây mang về đun, hay chặt mấy gốc sim khô về làm củi. Cơm độn sắn, ăn với rau rừng chấm nước muối...
Trường bị địch ném bom thiêu rụi! Phải học đêm, sau khi máy bay Pháp "đi ngủ". Ánh sáng trong lớp là ánh đèn dầu - loại dầu ép từ quả dọc, sền sệt, đựng trong những cái đĩa, đốt bằng thứ bấc lấy từ ruột xốp của một loại cây thân mềm.
9 giờ đêm, sau buổi học thứ bảy cuối tháng, đốt đuốc nứa khô soi đường cuốc bộ ra bến đò, sang sông Thao, trở về nhà lấy gạo tiếp tế. Đi thâu đêm, rạng sáng mới tới nhà. Rồi 4 giờ chiều chủ nhật, lại vác trên vai một ruột tượng gạo nặng cả yến, quay trở lại trường. Tới bến đò thì trời đã tối mịt. Máy bay địch đã "ngủ yên", cứ ung dung đốt đuốc...
Ngay từ thời ấy, anh Đạo đã quen tự học: tự mình dịch những đề toán tiếng Pháp trong mấy cuốn sách giáo khoa mượn được, để làm thêm.
"Lửa thử vàng, gian nan thử sức". Nếu như thời trẻ ta bị ném vào "lửa", phải sống trong cảnh gian nan, thì đó chưa hẳn đã là điều bất hạnh.
Tháng 10.1954, Hà Nội giải phóng, anh "hạ sơn" học lên đại học.
Luận án TS khoa học giữa rừng sâu
Năm 1957, tốt nghiệp đại học loại giỏi, anh được cử về Đại học Bách khoa, dạy môn cơ học lý thuyết. Biết kiến thức của mình còn nhiều lỗ hổng, anh lo lắng tự bổ túc theo chương trình hoàn chỉnh 5 năm của Đại học Lomonosov ở Matxcơva. Đọc hiểu tiếng Nga, đạt trình độ cơ bản về toán rồi, anh bắt đầu thích thú một số vấn đề nêu lên trong các tạp chí cơ học của Liên Xô và cảm thấy khát khao nghiên cứu. Nhưng không tìm được người hướng dẫn. Anh mạnh dạn gửi thư xin ý kiến một vài nhà cơ học Liên Xô. Rồi nhận được lời khuyên: Nên nghiên cứu cơ học thiên thể; trong lĩnh vực này còn nhiều vấn đề thú vị chưa ai giải quyết. Liên Xô vừa phóng vệ tinh nhân tạo, rồi Gagarin, Titov... bay vào không gian. Cơ học thiên thể rất cần cho bạn. Nhưng Việt Nam ta thì đã cần chưa? Năm 1960, anh đề xướng với các đồng nghiệp trong khoa một hướng nghiên cứu thiết thực hơn: Dao động phi tuyến của các hệ động lực.
28 tuổi, anh bảo vệ thành công luận án TS cơ học tại Đại học Lomonosov danh tiếng. Trở về nước năm 1965, anh theo trường mình vượt qua Na Sầm, Thất Khê sơ tán lên một bản vắng của đồng bào Tày ở tỉnh Lạng Sơn. Nơi đây mọi thứ đều thiếu thốn. Nhưng, may thay, có hai thứ không hề thiếu: thời gian và sự yên tĩnh, hai thứ vô cùng quý báu giúp người nghiên cứu lý thuyết có thể đắm mình trong suy tưởng. Anh nhớ lời khuyên của nhà bác học Xô-viết lừng danh M. Lavrentiev dành cho lớp trẻ: "Muốn tìm một nhà khoa học giỏi ư? Trước hết, hãy tìm những người có khả năng làm việc rất nhiều, không phải 6 tiếng hay 8 tiếng, mà là 10 - 12 thậm chí 14 tiếng mỗi ngày!". Anh Đạo làm việc miệt mài như thế.
Đầu năm 1967, giữa rừng sâu, anh nhận được một bức thư từ Liên Xô gửi tới theo địa chỉ: Việt Nam BC 24 ĐQ-TH2B, ký hiệu mật của Đại học Bách khoa lúc đó. Trong thư, viện sĩ V. O. Kononyenko viết: "Tôi rất vui mừng được biết, mặc dù chiến tranh ác liệt, anh vẫn tiếp tục nghiên cứu khoa học. Đề tài anh chọn thật là hay về lý thuyết cũng như về ứng dụng...".
Năm 1976, sang Ba Lan làm thực tập sinh cao cấp, anh mang theo một bản luận án TS khoa học hoàn chỉnh, dày 500 trang, được nghiền ngẫm kỹ càng trong những năm dài sống ở một "xó rừng" Việt Bắc bên dòng sông Kỳ Cùng ào ào sóng đổ. Các GS bạn hết sức ngạc nhiên. Chỉ ba tháng sau, anh bảo vệ thành công luận án. Trở về nước vào dịp tết Đinh Tỵ, anh được lãnh tụ Trường Chinh đến thăm, chúc tết. Lúc bấy giờ gia đình anh đang sống trong một gian nhà cấp bốn bên dòng Tô Lịch tù đọng...
Không được sống và làm việc nhiều năm ở nước ngoài, Nguyễn Văn Đạo đã viết 114 bài báo khoa học (43 bài công bố ở nước ngoài) và 8 cuốn sách chuyên khảo, chủ yếu ở trong nước, bất chấp mọi khó khăn. Cuốn Applied Asymptotic Methods in Nonlinear Oscillations (Phương pháp tiệm cận ứng dụng trong dao động phi tuyến) của Yu. A. Mitropolsky và Nguyễn Văn Đạo đã mang lại cho hai tác giả giải thưởng nhà nước của Ukraine .
Năm 2000, Nguyễn Văn Đạo được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhà cơ học Việt Nam nổi tiếng ấy cũng được bầu làm viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Tiệp Khắc (1988) - nay là Cộng hoà Czech, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba (1999), viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Ukraine (2000), và viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học châu Âu (2002).
Uy tín khoa học của GS Nguyễn Văn Đạo
114 công trình nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Đạo gây tiếng vang rõ rệt trong giới cơ học thế giới. Cuốn Applied Asymptotic Methods in Nonlinear Oscillations, do Yu. A. Mitropolsky và Nguyễn Văn Đạo viết bằng tiếng Anh, nhà xuất bản khoa học nổi tiếng Kluwer Academic Publishers in 1997, dày 342 trang, được tặng giải thưởng nhà nước của Ukraine. Cuốn Stability in Dynamic Systems, do Nguyễn Văn Đạo viết bằng tiếng Anh, dày 235 trang, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội in năm 1998, được GS L. Bevilacqua dùng làm giáo trình tại Đại học Rio de Janeiro, Brazil.
GS Mitropolsky, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Ukraine , nhận xét: "GS Nguyễn Văn Đạo là một nhà khoa học nổi tiếng thế giới, có cống hiến to lớn cho sự phát triển của cơ học và toán học ứng dụng, đặc biệt trong lý thuyết dao động (...). Các kết quả nghiên cứu của ông đã làm hình thành tại Hà Nội một trường phái về dao động phi tuyến. Điều này được xác nhận bởi sự kiện Hiệp hội quốc tế Cơ học lý thuyết và ứng dụng triệu tập Hội nghị quốc tế thường kỳ về dao động phi tuyến vào tháng 3.1999 tại Hà Nội".
GS Nguyễn Văn Đạo được mời làm đồng chủ tịch hội nghị quốc tế đó.
GS Ladislav Pust, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học CH Czech, cho biết: "Cuốn sách của Yu. A. Mitropolsky và Nguyễn Văn Đạo rất nổi tiếng ở Czech". GS, TS khoa học Zbigniew Osinski, Đại học Công nghệ Warsaw, Ba Lan, cho biết: "GS Nguyễn Văn Đạo được quốc tế đánh giá cao (...). Ông không chỉ tiêu biểu cho nền cơ học Việt Nam , mà còn là đại diện chân chính cho đất nước mình trong cộng đồng khoa học thế giới".
GS Nguyễn Văn Đạo cũng rất được các đồng nghiệp trong nước mến mộ. Trung tướng Nguyễn Hoa Thịnh, GS, TS khoa học, chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng, nói: "Tôi liên tục đọc các công trình của anh Đạo từ năm 1970 đến nay. Anh có đóng góp to lớn cho cơ học nước ta và thế giới. Các bài báo của anh được in trên nhiều tạp chí có uy tín ở trong nước và nước ngoài". GS Đặng Đình Áng nhận xét: "GS Nguyễn Văn Đạo làm việc chu đáo, cẩn thận, khoa học. Ở nước ngoài cũng hiếm thấy người như ông, vừa quản lý tốt, vừa nghiên cứu khoa học xuất sắc".
Nguồn: sgtt.com.vn ngày 18/4/2006