Nguồn lực tri thức và tri thức bản địa(*)
Do những yêu cầu khoa học và mục tiêu phát triển, trong những năm qua, giới nghiên cứu đặc biệt là các nhà sử học, dân tộc học, nhân học, văn hoá học, khoa học phát triển… đã rất chú tâm đến việc nghiên cứu Tri thức địa phương (Local knowledge) hay Tri thức bản địa (Indigenous knowl-edge) (2). Việc trở về với những giá trị nguồn cội, với các nguồn lực tri thức, di sản xã hội, văn hoá và lấy đó làm một trong những cơ sở cho việc xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển địa phương, khu vực, vùng và liên vùng… là một xu thế đã và đang được nhiều cấp chính quyền ở Việt Nam cũng như thế giới quan tâm.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không đi sâu bàn về nội dung của các khái niệm cũng như nguồn gốc, bản chất, đặc điểm của trí tuệ (3)và nguồn lực tri thức mà chủ yếu từ cách tiếp cận lịch sử - văn hoá, muốn tập trung làm rõ đặc tính của các nguồn lực tri thức, mối quan hệ tương tác giữa chúng và vai trò của các nguồn lực tri thức trong tiến trình phát triển lịch sử, văn hoá của dân tộc.
Là một quốc gia có truyền thống lịch sử, văn hoá phong phú, có thể nói không một địa phương nào, một không gian văn hoá vùng, miền nào trên đất nước ta lại không có nguồn lực và vốn tri thức của riêng mình. Người ta hay nói văn hoá là sự khác biệt và Tri thức bản địa, được hình thành trong quá trình lịch sử, là sự thích ứng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, văn hoá; là sự lựa chọn, tích luỹ kinh nghiệm, sáng tạo của cư dân bản địa qua nhiều thế hệ… chính là sự lựa chọn, kết tinh của tất cả các nhân tố đó. Nói cách khác, Tri thức bản địa là nguồn lực, vốn sống, kinh nghiệm ứng xử được thể hiện trong các phong tục, tập quán, thói quen, phương thức canh tác, lao động, sản xuất và cả những niềm tin của con người với thế giới tự nhiên và môi trường sống của mình. Trên phương diện văn hoá, Tri thức bản địa chính là căn cước để nhận dạng, định dạng vốn tri thức của một cộng đồng dân tộc trong phạm vi một vùng hay khu vực trong kho tàng văn hoá đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Một số người thường coi Tri thức bản địa gắn liền với những giá trị truyền thống. Theo tôi, điều đó đúng nhưng chưa đủ bởi nguồn lực tri thức của một dân tộc hay nói rộng ra là của các cộng đồng dân tộc (với ý nghĩa như một quốc gia) bên cạnh những giá trị lâu dài, bền vững thì vốn sống, sự hiểu biết, kinh nghiệm ứng xử, niềm tin tôn giáo… cũng được tích luỹ không ngừng qua thời gian. Cũng như Tri thức dân tộc (National knowledge), Tri thức bản địa (là những bộ phận hợp thành), luôn thể hiện khả năng thích nghi và không ngừng biến đổi. Nói cách khác, nó luôn được bổ sung, làm mới bởi chính dân tộc đó hoặc những tác nhân văn hoá, xã hội bên ngoài. Do vậy, với tư cách là những người vừa góp phần bảo tồn vừa đồng thời là chủ thể sáng tạo văn hoá, mỗi cộng đồng địa phương hay mỗi cá nhân, nhóm người.. rất khó để có thể tri nhận toàn bộ, thấu đáo những giá trị của nguồn vốn tri thức mà địa phương mình có. Trong cuộc sống thường ngày, người ta vẫn đi nương, làm rẫy, trồng lúa, tỉa bắp, đưa nước vào ruộng, ra khơi đánh cá, chữa bệnh, thực hiện nghi lễ kết hôn, tổ chức tang ma… một cách tự nhiên “như tự ngàn đời xưa” (4)! Nói cách khác, chính Tri thức bản địa đã giúp các cộng đồng người không chỉ khai thác hiệu quả tự nhiên mà còn biết dựa vào tự nhiên và ứng xử hài hoà với môi trường sống.
Trong nhận thức của chúng ta, Tri thức bản địa thường được truyền nối qua nhiều thế hệ. Nguồn tri thức đó có thể thành văn hay bất thành văn. Trong rất nhiều trường hợp, trầm lặng sau những giá trị tưởng như là bất biến đó là biết bao sự biến đổi, thích nghi và hội nhập. Trên thực tế, rất khó có thể xác định được một cách cụ thể, chính xá tất cả các thành tố của nguồn lực tri thức được hình thành, thâm nhập vào trong mỗi dân tộc, cộng đồng văn hoá của các dân tộc từ đâu, bằng cách nào và bao giờ. Từ những điều phân tích trên, có thể cho rằng Tri thức bản địa luôn được cấu thành bởi ba nhân tố: 1. Các giá trị cốt lõi, truyền thống, được tiếp nối, trao truyền qua nhiều thế hệ; 2. Những giá trị bổ sung mà thời đại đem lại, vừa là sự phát triển mang tính kế thừa vừa thể hiện khả năng thích ứng của cư dân bản địa; Và, 3. Ảnh hưởng và những tác nhân văn hoá bên ngoài đến nguồn lực, vốn tri thức của các cộng đồng cư dân bản địa.
Một cách hiểu thứ hai nữa cũng cần phải trao đổi là, cứ nói đến Tri thức địa phương hay Tri thức bản địa là người ta lại nghĩ ngay đến nguồn vốn Tri thức của các dân tộc thiểu số sống trên các vùng cao. Cách hiểu này rõ ràng là có phần phiến diện bởi lẽ, như đã nói ở trên, bề dày và sự phong phú của nguồn vốn tri thức đó. Hơn thế, sức sống của một nền văn hoá, trong đó có nguồn vốn tri thức của một dân tộc, cũng thường được trải nghiệm qua những thách thức của thời gian vì thế các thế hệ sau, những người vừa có sứ mệnh truyền nối vừa thụ hưởng các giá trị đó, cần phải phân tích, đánh giá đúng vai trò, đóng góp của nó trong cuộc sống hiện tại cũng như triển vọng phát triển của mỗi cộng đồng dân tộc. Trong những năm qua, biết bao di sản văn hoá quý báu của các vùng miền đã được nghiên cứu, phục hưng và phát triển trong bối cảnh mới. Điều đáng chú ý là, một số di sản văn hoá chứa đựng vốn sống, tri thức sâu sắc và đặc sắc như Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Quan họ Bắc Ninh (5)…đã vượt ra khỏi các không gian văn hoá vùng, miền hay bộ phận xã hội nhất định để trở thành di sản văn hoá chung của đất nước và nhân loại.
Tuy nhiên, cũng có một thực tế là, đối với nhiều vùng cao, trong những không gian văn hoá có phần biệt lập, với những cộng đồng cư dân luôn có y thức bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống, thì chính trong các khu vực đó người ta lại có những điều kiện thuận lợi để bảo lưu các giá trị văn hoá một cách bền vững nhất. Theo lý thuyết “Vòng xoay văn hoá”, các nền văn minh, văn hoá càng giàu năng lực sáng tạo bao nhiêu thì càng có khả năng truyền bá và khuếch tán văn hoá mạnh mẽ bấy nhiêu. Vì thế, đối với các vùng xa xôi (thậm chí là quốc gia láng giềng), trong thung lũng hay trên các sườn núi cao… các yếu tố văn hoá mới thường khó thâm nhập. Nhưng, cũng chính trong môi trường đó, trong những không gian văn hoá tưởng như yên bình, lại là nơi lắng đọng, kết tinh và phát triển sáng tạo nhiều giá trị của các nền văn minh, văn hoá lớn qua các thời đại (6).
Điều thứ ba là, khi nói đến Tri thức bản địa, nhiều người thường hay nghĩ đến một loại hình Tri thức phi văn bản. Theo đó, Tri thức bản địa được coi đồng nghĩa với Tri thức truyền miệng hay Tri thức dân gian. Trong ý nghĩa đó, Tri thức bản địa chỉ là “sự tích lũy kinh nghiệm một cách hỗn độn, thiếu khoa học, khách quan và không đáng tin cậy”! Đôi khi, được biển giải bằng những tri thức hiện đại hay cách nhìn “khoa học”, người ta không khỏi coi Tri thức bản địa là sự thấp kém, thậm chí trên một số phương diện còn mang màu sắc mê tín, dị đoan. Thực ra, nếu coi Tri thức bản địa là sản phẩm đặc thù của một địa phương thì chúng ta cũng phải đánh giá khách quan tất cả những giá trị riêng biệt, đặc sắc, sáng tạo của không gian văn hoá đó. Bởi lẽ, hầu như trong mỗi vùng quê, đều có sự hiện diện của các nghệ nhân, nghệ sĩ…, những người có khả năng đặc biệt trong việc ‘truyền lửa” cho các thế hệ sau qua các bộ sử thi, bí truyền của một phương thuốc, của một liệu pháp tâm lý hay giai điệu, ngữ nghĩa của một câu ca. Bên cạnh đó, trong mỗi cộng đồng dân cư, còn có biết bao những con người bình dị nhưng giàu vốn tri thức trong việc canh tác, phát triển chăn nuôi, tìm nguồn nước cũng như nhận biết những biến đổi của đất trời. Trong những con người đó, có không ít người có học bởi sự phát triển của hệ thống trường làng, trường chùa và cả những trí thức, những người “hết quan hoàn dân” về quê, tiếp tục có những đóng góp cho xã hội. Cùng với kinh nghiệm và tri thức, di sản mà họ để lại còn có nhiều cuốn sách, tư liệu quý về kinh tế, xã hội, văn hoá, về quá trình di cư, khai hoang, mở đất, về thế thứ của các dòng họ và cả về những điều cấm kị trong quan hệ xã hội, những điều cần tuân thủ trong ứng xử với thế giới tự nhiên. Người ta đã xây dựng nên những quy định và trong nhiều trường hợp đã “văn bản hoá” các quy định đó thành các hương ước, luật tục… để tạo nên một sự thống nhất chung của cộng đồng. Đó chính là vốn quý của một dân tộc. Trong rất nhiều trường hợp, các cuốn sách, tư liệu, quy ước và trải nghiệm đó được đúc kết trên nền tảng của các Tri thức dân gian và được sử dụng, khai thác, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Như vậy, Tri thức bản địa được bảo tồn, phát triển và sáng tạo trong quá trình lịch sử. Trong quá trình đó, tất cả các thành viên cộng đồng đều có thể tham gia, góp phần bổ sung, hoàn thiện và chính họ đã truyền tải các tri thức đó từ đời này sang đời khác (7).
Không chỉ dừng lại ở đó, một số người còn muốn đưa ra sự đối lập giữa Tri thức bản địa và Tri thức hàn lâm (Academic knowledge). Theo đó, Tri thức hàn lâm được coi là hình thành chủ yếu qua các nhà thông thái, được hệ thống hoá và truyền lại qua học vấn, sách vở. Cực đoan hơn, chịu ảnh hưởng của học thuyết “Lấy châu Âu làm trung tâm “ (Eurocentrism), một số người còn đề cao Tri thức phương Tây (Western knowlegde) và “đối diện” nguồn tri thức này với Tri thức phương Đông (Ori-ental knowledge) đồng thời tuyệt đối hoá ưu thế của nguồn tri thức này như là nguồn Tri thức chính thống (Formal knowledge). Hiển nhiên, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp hết sức quan trọng của Tri thức phương Tây với những thành tựu nổi bật về triết học; tư tưởng, tư duy kinh tế; xây dựng, quản lý đô thị và về kỹ thuật, công nghệ…. Nhưng, những thành tựu đó dù phong phú đến đâu, chỉ là một trong rất nhiều hệ thống tri thức của nhân loại. Những thành tựu rực rỡ, đặc sắc của kho tàng Tri thức phương Đông là không thể phủ nhận. Hơn thế, các nền văn hoá, văn minh phương Đông đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của văn minh nhân loại (8). Không ít nhà quản lý ở Tây Âu, Bắc Mỹ… đang phải tìm đến các giá trị phương Đông để kiến lập các giải pháp phát triển đồng thời củng cố cấu trúc xã hội của mình.
Trong khi chúng ta luôn coi trọng vai trò của Tri thức bản địa đối với sự phát triển của các địa phương thì cũng phải thừa nhận một thực tế là, giữa Tri thức bản địa và Tri thức khoa học có sự khác biệt. Giữa hai nguồn lực hay loại hình tri thức đó có những khoảng cách về trình độ nhận thức, năng lực phát hiện, sáng tạo, khả năng tư duy, bao quát cũng như cách thức luận giải các vấn đề khoa học. Tuy nhiên, trên thực tế, một cái nhìn phân lập, cực đoan giữa Tri thức bản địa với Tri thức khoa học hay Tri thức hàn lâm luôn đặt ra cho các nhà nghiên cứu nhiều vấn đề nan giải. Trong Vân Đài loại ngữ, tham khảo sách Lĩnh Nam tạp ký, Lê Quý Đôn đã có những mô tả chi tiết về một loại đá có khả năng hút nọc độc: “thứ đá hút nọc độc, là thứ đá lấy trong óc con độc xà ở đảo Tây dương, to bằng hạt biển đậu, hay hút các thứ thũng độc và nọc rắn rết. Khi nào bị nhiễm các nọc ấy, lấy viên ngọc hấp độc thạch để vào chỗ đau thì nó bám chặt lấy. Hễ nó hút hết nọc, thì nó rời ra, rồi người ta lấy sữa người tẩm cho nó, thấy sắc sữa xanh thì đổ đi. Nếu không tẩm sữa thì hòn ngọc vỡ ngay” (9). Đến nay, trong dân gian, ở miền Bắc cũng như miền Trung, một số gia đình vẫn giữ quyền sở hữu những hòn đá có “phép màu” như thế. Họ coi đó là những bảo vật để giúp đời. Như vậy, giữa thôgn tin khoa học mà nhà bác học Lê Quý Đôn cung cấp thế kỷ XVIII với Tri thức dân gian dường như không hề có khoảng cách. Do vậy, rất khó có thể coi những ghi chép, mô tả trên là thuộc về Tri thức bác học hay Tri thức dân gian mặc dù trong Vân Đài loại ngữcũng như các tác phẩm khác của ông, nhà bác học Lê Quý Đôn còn viết và khảo cứu về nhiều vấn đề học thuật thâm sâu khác.
Cũng cần nói thêm là, trước đây, trên các diễn đàn khoa học, đã có những cuộc tranh luận sôi nổi về sự khác biệt giữa văn hoá (văn chương) bình dân với văn hoá (văn chương) bác học. Dù cuộc tranh biện vẫn chưa có hồi kết nhưng người ta đã phải thừa nhận một thực tế là, giữa hai dòng (hay hai loại hình văn hoá này) luôn có nhiều mối liên hệ mật thiết, luôn chịu ảnh hưởng, tương tác đa chiều trong cuộc hành trình cùng lịch sử - văn hoá dân tộc.
Chú thích:
(*) Bài viết của PSG. TS. Nguyễn Văn Kim có nhan đề Nguồn lực tri thức – các mối liên hệ và sự phát triển kinh tế - xã hộilà một bài dài. Vì khuôn khổ của báo có hạn nên chúng tôi chia thành nhiều bài, với những nhan đề do chúng tôi đặt (B.T).
1. Bạn có thể xem như R. Ellen – P. Parker – A. Bicker (Ed): Indigenous Environmental Knowledge and Its Transformations: Critical Anthro-pological Perpectives, Amsterdam, Harwood Academic Publishers, 2000; Helga Nowotny – Peter Scott – Mi-chael Gibbons: Re Thinking Science – Knowledge and the Public in an Age of Uncertainety(tư duy lại khoa học – tri thức và Công chúng trong kỷ nguyên bất định), Nxb. Tri thức, H, 2009; Nguyễn Văn Khánh (Cb); Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2010..
2. Tham khảo Ngô Đức Thịnh, “ Thế giới quan bản địa”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 4, 2004; Hoàng hữu Bình, Tri thức địa phương và vấn đề phát triển bền vững ở miền núi Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, số 2, 1998; Vũ Trường Giang, “Về tri thức bản địa và phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, sô 10 (91), 2007; John Amber, Kinh nghiệm nghiên cứu páht triển miền núi - Một số nét khái quát từ châu Á. Báo cáo tại Hội thảo khoa học: Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường vùng Bình - Trị - Thiên, Huế, 1996; R. Ellen and H. Harris , Indigenous Enviromental Knowledge and Its Transformations – Critical Anthropological Perspec-tives, Routledge Taylor and Francis Group, London and New York, 2003.
3. Phạm Hồng Tung, “ Trí tuệ - Nguồn gốc, bản chất, cấu trúc và đặc điểm”, Tạp chí Khoa học – Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 25, số 3, 2009, tr.166-176.
4. Lévy Bruhl, “Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thuỷ”, Nxb. Thế giới - Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, H, 2008.
5. Nhã nhạc cung đình Huế 92003) và Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên (2005) được UNESCO công nhận là “kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại”. Năm 2009, Ca trù và Quan họ Bắc Ninh tiếp tục được UNESCO công nhận là “Di sản văn hoá phi vật thể “ của thế giới. Trong số các di sản đó, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với chủ thể sáng tạo là người Ê-đê, Ba-na, Mạ… có thể coi là một loại hình “Tri thức bản địa” hết sức đặc sắc với hai đặc trưng cơ bản là: Hình thành trên một phạm vi tương đối rộng lớn và nhiều tộc người cùng tham gia, sáng tạo di sản văn hoá chung.
6. Các nhà nghiên cứu văn hoá khu vực thường hay viết về trường hợp Kimono, Kiếm thuật và Trà đạo của Nhật Bản. Cả ba thành tựu văn hoá này người Nhật đều tiếp thu từ văn minh Trung Hoa nhưng đều đã kế thừa và phát triển hết sức sáng tạo. Kết quả là, các thành tựu văn hoá đều trở thành di sản đặc sản của văn hoá Nhật Bản.
7. Trong quá trình đó, Trí tuệ cá nhân đã góp phần quan trọng để dần hình thành nên Tri thức tập thể (Collective knowledge) hay Trí tuệ tập thể (Collective intelligence) để rồi từ đó phát triển thành Trí tuệ xã hội (Social knowledge). Hiển nhiên, đó không phải là sự tích hợp, ghép tụ khiên cưỡng. Xem Phạm Hồng Tung, Trí tuệ - Nguồn gốc, bản chất, cấu trúc và đặc điểm, đã dẫn, tr.171-173
8. Arnold Toynbee, nghiên cứu về lịch sử - Một cách thức diễn giải, Nxb. Thế giới, H, 2002
9. Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ, tập II, Sđd, tr.139. Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ, (Trần Văn Giáp biên dịch và khảo thích), tập II, Nxb. Văn hoá, H.,1962. Đánh giá về Vân đài loại ngữ, học giả Cao Xuân Huy cho rằng: “theo thuật ngữ thư mục học Trung Quốc thì Vân Đài loại ngữlà một bộ “loại thư”… Vân Đài loại ngữlà một công trình nghiên cứu rất lớn. Đối với chúng ta hiện nay nó còn có thể giúp ích nhiều trong sự nghiên cứu văn hoá, triết học, sử học (nhất là những tài liệu phong phú về địa dư lịch sử trong loại khu vũ) tư tưởng sử, ngôn ngữ học, nông học (lịch sử các giống lúa ở Việt Nam), sinh vật học…” Cao Xuân Huy, “Lời giới thiệu sách Vân Đài loại ngữ”, Nxb. Văn hoá, H, 1962, tr.40-41.