Người làm ra máy “ăn” tiền
Một giấc mơ, một đời người
Năm 1977, đang là kỹ sư trưởng của một công ty đồ họa máy tính để tạo ra hình ảnh trong làm phim, Đỗ Đức Cường được Walter Briston, Tổng giám đốc Citibank lúc đó, mời về làm việc. Citibank vừa hoạch định xong chiến lược mở rộng hoạt động ra các quốc gia, tăng nhanh lượng khách hàng trên cơ sở giảm thiểu chi phí nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Ý tưởng của W. Briston là chuyển khách hàng từ kênh chi nhánh qua kênh giao dịch tự động. Muốn thế, phải có những công cụ mới. Công cụ ấy thế nào, ông Cường là người được giao phó trách nhiệm. Ông cùng đội ngũ kỹ sư bắt đầu mày mò với quyết tâm tạo ra giao dịch viên bằng… máy. Ở Mỹ thời điểm này, máy bán kẹo, thuốc lá tự động đã xuất hiện, nhưng giao dịch ngân hàng thì không thể giống máy bán kẹo được. Một năm sau, chiếc máy giao dịch tự động đầu tiên ra đời, nó to gấp bốn lần máy ATM bây giờ, nặng nề và “ngốn” của Citibank một triệu đô la Mỹ chi phí. To thế, nhưng máy chỉ làm được một việc cơ bản: đọc thẻ, gửi yêu cầu của khách hàng về kho dữ liệu để triển khai giao dịch rút tiền, gửi tiền. Từ chiếc máy đơn giản ấy, ông Cường cải tiến, hoàn thiện, đeo đuổi mãi như một giấc mơ trong suốt 20 năm gắn bó cùng Citibank. “Tôi nhận ra một điều khi làm việc với Citibank: nếu ngân hàng không nhìn những người dân bình thường như khách hàng tiềm năng, ngân hàng không phát triển được. Quần chúng hóa các dịch vụ, ngân hàng sẽ thành công”, ông nói.
Tháng 6-2003, theo yêu cầu của Việt Nam trợ giúp kỹ thuật cho SEA Games 22, ông Cường về nước sau hơn 30 năm ở Mỹ. Ông tìm hiểu, làm quen với ngân hàng Việt Nam. Đó là bước ngoặt trong đời ông. Khi ấy, ở Hà Nội và TPHCM mới chỉ có máy ATM của một số ngân hàng nước ngoài và Vietcombank, chủ yếu dành cho khách hàng sử dụng thẻ quốc tế. Hiển nhiên dân thường đâu biết nhiều về ATM. Vậy mà ông lại là một trong những người sáng chế ra nó. Phải làm sao để cái máy phục vụ mọi người, trở thành cầu nối đưa dịch vụ ngân hàng đến với giới bình dân. Ông Cường khát khao thế, một khát khao lạ lùng ở cái tuổi của ông.
“Chuyên gia vé số”
Nghỉ hưu ở Citibank, ông có thể sống những năm tháng còn lại của cuộc đời an nhàn cùng gia đình bên Mỹ. Nhưng ông đã về ViệtNam, làm hùng hục. Ông chẳng ham tiền, ham giàu, chỉ nghiện việc. Với căn bệnh tim, đã từng qua phẫu thuật và trái tim hiện đập với bảy chiếc lò xo trợ lực, sức khỏe không còn hào phóng với ông.
Tôi nhớ có một lần, ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Á, nói mục tiêu của Đông Á là làm sao để khách hàng có thể giao dịch ngoài giờ, làm sao để ngân hàng hoạt động 24/24 giờ. Bẵng đi một thời gian, ông vui mừng báo “tìm ra rồi”. Cái “tìm ra rồi” ấy là giải pháp ATM. Và Đông Á đang trên con đường biến các máy ATM thành điểm giao dịch ngân hàng tự động bằng cách trang bị thêm các dịch vụ cho nó.
Đông Á là ngân hàng đầu tiên mà ông Cường hợp tác. Ban đầu, khi nghe ông nói sẽ cố gắng để những tiểu thương ở chợ cũng có thể gửi tiền bằng ATM, có người cười trừ. Họ bảo ông giống người bán vé số hơn chuyên gia ngân hàng, mà lại là chuyên gia kỹ thuật! Ông im lặng, lấy công việc để minh chứng. Nhân viên Ngân hàng Đông Á nể và “sợ” ông. Ông giúp đào tạo họ, những chuyên viên kỹ thuật mạng, vận hành, bảo trì máy ATM. Ông có thể đột ngột ba giờ sáng tới kiểm tra xem trung tâm xử lý dữ liệu của Đông Á có chạy đều không. Ông có thể nửa đêm chạy tới bất kỳ máy ATM nào của mạng VNBC để coi nó có hoạt động tốt không. Có máy vào 23 giờ trên mạng báo hết tiền, ông kêu nhân viên đi nạp. Nguyên tắc của ông là dịch vụ phải trên hết, khách hàng luôn luôn đúng. Có lẽ vì thế mà các máy ATM của mạng VNBC chưa bao giờ xảy ra sự cố trả tiền thiếu, sai hay mất tiền trong tài khoản của khách hàng.
“Công nghệ không phải là cuộc chạy đua thời trang”
Đỗ Đức Cường sinh ra và lớn lên ở Quảng Ngãi, mảnh đất, như ông tả, bốn tháng nắng, tám tháng mưa, đất cằn không trồng nổi khoai mì. Ông bảo nghèo vẫn có cách đi lên của người nghèo. Với máy ATM cũng thế. Khi hợp tác với SaigonBank, ông giải thích: “Công nghệ không phải là cuộc chạy đua thời trang”. Và ATM phải mang đến cho khách hàng lợi ích, cho ngân hàng lợi nhuận lâu dài, phải giúp những ngân hàng ít vốn cũng có thể xây dựng hệ thống tương thích với các ngân hàng lớn. Hệ thống VNBC hiện mới chỉ có hai ngân hàng, nhưng đã kết nối với hệ thống China Union Pay của Trung Quốc. Sắp tới sẽ có Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Nhà Hà Nội gia nhập VNBC. Trong chuyến trở về Mỹ gần đây, ông Cường đã thuyết phục được Citibank gia nhập hệ thống VNBC.
Để giúp các thành viên VNBC trang bị máy ATM, ông Cường trao bản quyền tám phát minh của mình, không lấy một xu, cho một cựu đô đốc thủy sư của Hải quân Trung Quốc để họ chế tạo những chiếc máy ATM cho ngân hàng Việt Nam. Ông ra điều kiện nơi chế tạo không được bán máy qua công ty trung gian nhằm giảm giá thành cho ngân hàng ViệtNam, đồng thời phải hỗ trợ kỹ thuật miễn phí dài hạn. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao máy của Đông Á, SaigonBank khấu hao nhanh, chỉ 1,5-2 năm là hòa vốn. Sau đó, các ngân hàng bắt đầu thu lợi.
Phía trước là cạnh tranh
Nếu hỏi ông Cường về thế giới máy ATM, ông sẵn sàng bộc bạch hết những gì ông biết. Từ cấu tạo từng loại máy, đời mới, cũ, bộ phận đếm tiền chân không hay ma sát, sản xuất ở đâu, giá cả thế nào, phù hợp với mạng thanh toán nào... Khi ngân hàng đầu tư cho hệ thống thẻ, một trong những điểm cốt yếu là hệ thống đó phải nối mạng được với các mạng thanh toán quốc tế, để thẻ nội địa cũng xài được ở nước ngoài. “Đó là cách để các ngân hàng ViệtNamchuẩn bị cho cạnh tranh ngay từ giờ”, ông Cường nhấn mạnh. Vì như ở Mỹ, ở châu Âu và bây giờ là châu Á, các công ty cung cấp dịch vụ độc lập quốc tế đầu tư rất nhiều cho máy ATM. Họ tạo mạng lưới máy ATM cho khách hàng của ngân hàng sử dụng và họ thu phí. Những máy ATM này sẽ đáp ứng chuẩn mực mạng quốc tế, và thẻ của những ngân hàng nào kết nối được với mạng quốc tế, sẽ xài được ở những máy ATM đó. Những máy ATM chỉ cung ứng dịch vụ cho một loại thẻ của một ngân hàng sẽ không có cơ may cạnh tranh và tồn tại. Hiện nay các ngân hàng trong nước vẫn đang được bảo hộ tuyệt đối ở mảng ATM. Thế nhưng, áp lực chấm dứt bảo hộ đang ngày một mạnh và thời gian bảo hộ đang rút ngắn dần.
Ông Cường có thói quen nhâm nhi ly cà phê ở quán ven đường. Một lần, ông bảo ông vui kinh khủng khi thấy cô bán cà phê, vào cuối ngày, tất tả vuốt thẳng những đồng tiền, rồi chạy lại cái máy ATM để gửi tiền vào đó. Cô phân bua với người khách là ông, rằng cái máy tiện lợi quá, biết “ăn” tiền. Cô làm thế vừa tiết kiệm mỗi ngày một ít, vừa đỡ phải giữ tiền bên mình. Hôm sau, nếu cần tiền, cô ra rút lại. Ông Cường tự hỏi những người dân lao động, buôn thúng bán bưng như cô, liệu có bao giờ vào ngân hàng gửi 30.000- 50.000 đồng không nhỉ! Rồi phải ký giấy, mở sổ tiết kiệm, nhiều thủ tục lắm. Nhưng quan trọng hơn là cái không khí ngân hàng, với những ô tô chở tiền, những người thu nhập cao, giới tài chính, thương mại… có khiến cô bán cà phê ngại ngùng? Khi tất cả các cô bán cà phê biết xài ATM như cô bán cà phê của ông Cường, hẳn bộ mặt ngân hàng ViệtNamsẽ khác!
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn2/2/2006