Ngô Bảo Châu - Nhà toán học trẻ Việt Nam đoạt giải thưởng toán học quốc tế Clay 2004
Trong giới khoa học tự nhiên, Giải thưởng Nobel được coi là uy tín nhất, nhưng như chúng ta đã biết, giải Nobel không trao cho các công trình nghiên cứu toán học. Để ghi nhận các đóng góp và các công trình nghiên cứu toán học xuất sắc nhất, Liên đoàn Toán học Thế giới (International Mathematics Union - IMU) có giải thưởng Fields và nó được coi là “Giải Nobel về toán học”, tuy số tiền kèm theo không lớn như giải Nobel (giải thưởng Fields: 15.000 dollar Canada, tương đương 10.000 dollar Mỹ). Giải thưởng Fields trao bốn năm một lần cho các nhà toán học không quá 40 tuổi.
Từ năm 1999 giới toán học thế giới có thêm một giải thưởng mới rất có uy tín được trao hàng năm - Giải thưởng Clay do Viện toán học Clay (CMI - được thành lập tháng 9 năm 1998 tại Cambrige, bang Massachusetts, Mỹ) trao cho các nghiên cứu toán học xuất sắc nhất trong năm, không hạn chế độ tuổi. Trong số những người đoạt giải thưởng Fields, chỉ có 4 người đoạt Giải thưởng Clay là Alain Connes, Edward, Laurent và Andrew Wiles.
Giải thưởng Clay cho đến nay chỉ trao cho một hoặc hai công trình nghiên cứu được coi là xuất sắc nhất trong năm. Vì thế mà giải thưởng năm 2004 trao cho hai đồng tác giả GS. Gerard Laumon, Pháp và GS. Ngô Bảo Châu, Việt Nam mang nhiều ý nghĩa đối với giới nghiên cứu toán học của Việt Nam.
Gerard Laumon và Ngô Bảo Châu đoạt giải nhờ công trình nghiên cứu về Bổ đề cơ bản vừa được hoàn thành và công bố đầu năm 2004. Sự công nhận ngay lập tức kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị to lớn và tính thuyết phục cao của công trình nghiên cứu này. Đây là bổ đề đóng vai trò mấu chốt trong việc giải quyết bài toán có tên “ Chương trình Langlands ” - bài toán quan trọng nhất, trung tâm nhất của toán học hiện đại. Một thí dụ của bài toán này là giả thuyết Taniyama-Shimura-Weil đã được Wiles chứng minh và được trao Giải thưởng đặc biệt của IMU năm 1998 và Giải thưởng Clay năm 1999. Một phương thức khác tiếp cận “ Chương trình Langlands ” có sử dụng việc mở rộng công thức vết Selberg. Cản trở chính trong hướng này chính là bổ đề cơ bản . Vấn đề về bổ đề này đã tồn tại hơn hai mươi năm chưa có được chứng minh. Công trình chứng minh bổ đề cơ bản của GS. Gerard Laumon và GS. Ngô Bảo Châu đã khai thông bế tắc cho các nghiên cứu theo hướng này trong “chương trình Langlands”.
Ngô Bảo Châu sinh năm 1972, là học sinh hệ chuyên toán, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ngay khi đang học lớp 11, Ngô Bảo Châu đã đoạt giải nhất với số điểm tối đa 42/42 tại kỳ thi Olympic toán quốc tế tổ chức năm 1988 tại Australia, và năm sau, khi đang học lớp 12, anh lại đoạt giải nhất với số điểm 40/42 tại kỳ thi Olympic toán quốc tế tổ chức tại CHLB Đức. Sau đó Ngô Bảo Châu được chọn sang học tại Đại học Tổng hợp Paris 6 (Pháp). Ngay năm sau, anh vượt qua kỳ thi tuyển vào trường Ecole Normale Superieure, một trong số các trường đại học danh tiếng nhất của Pháp.
Năm 1997, ở tuổi 25, Ngô Bảo Châu bảo vệ song luận án tiến sỹ; và năm 2003, ở tuổi 31, anh bảo vệ thành công luận án tiến sỹ khoa học. Tháng 6 năm 2004, Ngô Bảo Châu được nhận làm giáo sư tại Đại học Paris 11.
Từ vườn ươm chuyên toán, với một niềm say mê nghiên cứu và một sức lao động bền bỉ trong một môi trường toán học quốc tế, qua một thời gian tương đối ngắn, Ngô Bảo Châu đã vượt qua một khoảng cách rất lớn để vươn tới trình độ nghiên cứu toàn thế giới.
Nguồn: Tiền phong, số 45, 7/11/2004, tr 4