Nghiên cứu xây dựng lộ trình phát triển chính phủ điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1. Tổng quan
Trong những năm gần đây công nghệ thông tin (CNTT) phát triển mạnh mẽ, ngoài việc phục vụ truy cập Internet để cập nhật và khai thác thông tin phục vụ công việc hàng ngày của người dân, còn đáp ứng được những nhu cầu về giao dịch trực tuyến thông qua hệ thống hạ tầng CNTT của các cơ quan của Chính phủ như kê khai hồ sơ cá nhân, đăng ký nộp thuế thu nhập cá nhân, đăng ký tạm trú tạm vắng, gửi và nhận công văn, cung cấp và hướng dẫn thủ tục hành chính v.v… Khi nói đến cụm từ “Chính phủ điện tử”, người ta có thể hiểu ngay được tầm quan trọng và các lợi ích mà nó đem lại cho một quốc gia đang phát triển nhất và sự phát triển trong lĩnh vực CNTT nhằm giải quyết và khắc phục cách làm việc trên giấy tờ như hiện nay-giúp cho quốc gia có thể cải cách hành chính trong phần lớn các công việc hiện còn chồng chéo nhau.
Hiện nay, rát nhiều quốc gia đang từng bước xây dựng và đưa CPĐT vào hoạt động trong đời sống kinh tế và xã hội, đất nước chúng ta cũng đang trên đương phát triển để hội nhập vào trào lưu phát triển chung của thế giới, vì vậy việc nghiên cứu, xây dựng một lộ trình phát triển CPĐT ở Việt Nam là một việc làm hết sức cần thiết để giúp đất nước nhanh chóng phát triển và hội nhập thế giới.
2. Vai trò quản lý của chính phủ điện tử
Cần xác định một khuôn khổ CPĐT để hỗ trợ cho việc triển khai chính ohur điện tử. Điều này giúp tạo ra một môi trường để thực ti một cách hiệu quả các dự án CPĐT. Chính phủ có thể nâng cao năng lực quản lý và đảm bảo cho các chương trình và dự án về CPĐT được thực thi. Ví dụ các nước như Mỹ, Vương quốc Anh, Singapore và Hồng Koong. Các thành tố then chốt của CPĐT có thể bao gồm:
Quản lý chính sách
- Các chính sách hỗ trợ CPĐT (hõ trợ về mặt quản lý và thủ tục hành chính trong việc ứng dụng CNTT).
- Cơ cấu tổ chức (sắp xếp việc sử dụng CNTT với các chiến lược và mục tiêu của Chính phủ).
- Các vai trò và trách nhiệm (các vai trò và trách nhiệm đã điều chỉnh và mới của các cơ quan chức năng nhằm hỗ trợ và cải cách và bước tiến của CPĐT).
- Nhân lực (bố trí lại và đào tạo lại nguồn nhân lực).
- Hoạch định ngân sách.
Quản lý mua sắm
- Giảm công việc chồng chéo và giảm chi phí.
- Làm rõ các điều kiện và cơ chế thực hiện.
- Xúc tiến ứng dụng CNTT.
Kiến trúc và quản lý CNTT
- Xác định kiến trúc công nghệ diện rộng, tạo khuôn khổ chung cho việc triển khai CNTT và truyền thông (ICT) và quản lý chính sách ICT.
- So sánh, đối chiếu và học tập các từ thông lệ quốc tế tốt về chính phủ điện tử.
Cải cách hành chính
- Cải tiến các quy trình của Chính phủ.
- Xem xét lại và điều chỉnh các ứng dụng hiện có.
Cải cách lại cách thức cung cấp các dịch vu công với công nghệ ICT và các năng lực về CPĐT.
Cải cách luật pháp
- Các luật về giao dịch điện tử và sắp xếp lại các luật hiện hành của Chính phủ.
- Các luật tác động đến thương mại điện tử.
- Luật về các loại tài nguyên trên mạng và khai thác các tài nguyên này.
- Các luật liên quan đến CPĐT và thương mại điện tử (thẻ chứng minh điện tử, chứng thực điện tử, an ninh và an toàn mạng v.v…).
3. Tầm quan trọng của khung chiến lược quốc gia về chính phủ điện tử
Việc triển khai CPĐT yêu cầu phải có sự lãnh đạo nhất quán và tầm nhìn vững vàng. Nó cũng yêu cầu phải có một chiến lược toàn diện, không chỉ chú trọng đến các phương thức triển khai hiệu quả nhất trên phạm vi toàn cầu mà còn phải nhạy bén với các điều kiện, tình hình thực tế hiên nay về chính trị và kinh tế. Để CPĐT trở thành hiện thực, chính phủ, có tham khảo ý kiến của những người tham gia, nên phát triển một Khung chiến lược quốc gia, trong đó bao gồm tầm nhìn, mục tiêu và kế hoạch thực hiện của chính phủ, phương pháp và các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các hệ thống CPĐT. Một khung cơ sở như vậy cần phải giải quyết các vấn để về tính riêng tư, an ninh của thông tin, việc bảo dưỡng và các tiêu chuẩn về giao diện.
Tuy nhiên, cũng phải nói ngay từ đầu rằng, một khung chiến lược quốc gia không phải là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ một dự án CPĐT nào. Nói một cách chính xác hơn, không được dùng các dự án CPĐT quan trọng tại bộ/ngành hay các cấp chính quyền địa phương do thiếu khung chiến lược quốc gia. Quá nhiều chính phủ đã quá mất nhiều năm và nhiều nguồn lực quý báu trong việc xây dựng chiến lược quốc gia, trong khi họ có thể chuyển sang triển khai một số dự án trọng điểm. Những gì mà chính phủ phải thực hiện là đảm bảo khung chiến lược quốc gia là một quá trình vẫn đang được tiếp tục triển khai chứ không chỉ dừng lại trên văn bản giấy tờ.
Hai phương pháp tiếp cận đối với CPĐT
Có hai phương pháp để triển khai CPĐT. Phương pháp thứ nhất là phương pháp từ trên xuống (top-down). Phương pháp này có đặc điểm là mức độ kiểm soát cao của chính quyền trung ương và thường bao gồm cả việc phát triển chiến lược. Phương pháp thứ hai là phương pháp từ dưới lên (bottom-up), trong đó mỗi một đơn vị hay chính quyền địa phương độc lập phát triển các dự án riêng của mình, các tiêu chuẩn chung thường rất linh hoạt, chiến lược tổng thể quốc gia không quan trọng lắm. Singapore và Trung Quốc triển khai phương pháp từ trên xuoongs, trong khi Mỹ và philipin lại áp dụng phương pháp từ dưới lên.
Mỗi một phwpwng pháp có một lợi thế và nhược điểm riêng của mình. Phương phps từ trên xuống hỗ trợ việc tích hợp. Tuy nhiên, việc phát triển chiến lược quốc gia, một vấn đề mà phương pháp này rất quan tâm phải mất nhiều năm và các quyết định về công nghệ có xu hướng nghèo nàn về mặt nội dung (do đó thường tốn kém và khó đảo ngược). Phương pháp từ dưới lên thường không theo thứ tự và có khuynh hướng rườm rà, tràn lan nhưng nó cũng tạo ra sự cải tiến và đem lại nhiều kết quả là có nhiều dự án được triển khai.
Cuối cùng, một phương pháp tốt nhất đối với CPĐT phụ thuộc vào từng đất nước, vào việc hệ thống chính trị của đất nước đó hoạt động như thế nào và mức độ thành thục công nghệ tại từng cơ quan của chính phủ. Ngoài ra, sự nhận thức và hỗ trợ của dân chúng đối với CPĐT cũng đặc biệt quan trọng đối với sự thành công và khả năng duy trì CPĐT. Do vậy cần phải tham khảo, tư vấn những người cùng tham gia triển khai. Những người cùng tham gia bao gồm người dân, các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, các ngành nghề khác nhau và bộ máy công quyền. Điều đặc biệt quan trọng là cần phải hiểu rõ các xu thế trên toàn cầu nhằm học tập các phương pháp tốt nhất cho các dự án và chiến lược CPĐT. Chỉ từ việc nghiên cứu các kinh nghiệm thành công và thất bại của nước khác, đất nước mới có khả năng xây dựng một cách hiệu quả chiến lược CPĐT của mình và tránh việc lãng phí thời gian, sức lực và tiền của. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác cũng cho phép các chính phủ muốn phát triển các chiến lược CPĐT của mình có thể xác định được các khu vực ưu tiên dựa trên bối cảnh văn hóa riêng biệt của mình.
Làm thế nào để xây dựng một cơ sở hạ tầng CPĐT phù hợp?
Cơ sở hạ tầng thông tin chính phủ (GII)-Một mạng lưới kết nối tất cả các cơ quan của chính phủ, cần phải đảm bảo mọi người dân đều có thể hưởng lợi đầy đủ từ CPĐT. Xây dựng GII là một công việc hết sức tốn kém đòi hỏi phải lập kế hoạch liên ngành và liên chính quyền. Cần phải xem xét những vấn đề sau khi xây dựng một mạng đường trục CPĐT như vậy:
Chi phí. Nghiên cứu khả thi về mặt tài chính là điều cần thiết trong việc triển khai CPĐT. Các phân tích về lợi ích chi phí có thể giúp chính phủ quyết dịnh hoặc mở rộng phân mạng đường trục của chính phủ và thu tiền phí kết nối đối với các nhà khai thác viễn thông trong trường hợp có những hạn chế về mặt chi phí.
Vấn đề cơ sở hạ tầng. Bao gồm cơ sở hạ tầng hiện nay của đất nước, tình hình phát triển Internet, mật độ điện thoại, tốc độ thay đổi công nghệ, sự cho phép hội tụ và đầu tư về băng rộng.
Các lợi ích và rủi ro. Có một mạng đường trục của riêng mình đảm bảo việc truyền thông của chính phủ được mở và bảo đảm an ninh 24 tiếng một ngày, 7 ngày trong 1 tuần và 365 ngày trong một năm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải có vốn cho việc nâng cấp và bảo dưỡng mạng lưới và chi phí cho việc thuê một đội ngũ cán bộ kỹ thuật hỗ trợ mạng cả ngày.
Một số chính phủ có thể quyết định việc xây dựng mạng đường trục của riêng mình là quá tốn kém về mặt chi phí và thời gian. Việc xây dựng một mạng đường trục có thể mất vài năm và hàng tỷ đô la để hoàn thành và nếu chính phủ muốn ngay lập tức triển khai CPĐT, họ có thể không đủ thời gian và tiền bạc để làm việc đó.
Một phương pháp khác là sử dụng các mạng đường trục hiện có của tư nhân, thường do một tập đoàn viễn thông lớn khai thác. Điều này có nghĩa là chính phủ đó ủy thác vấn đề an ninh của mạng cho nhà khai thác-người cũng sẽ chịu các khoản chi phí đối với các công việc thường xuyên như bảo dưỡng mạng và hỗ trợ về mặt kỹ thuật cũng như phải chịu các rủi ro đối với những phá hoại ngầm có thể xảy ra.
Để giảm thiểu đe dọa đối với an ninh của mạng, cacschinhs phủ sử dụng mạng đường trục cá nhân phải triển khai các biện pháp an ninh sau: các bức tường lửa, phần mềm phát hiện xâm nhập, mã hóa và các mạng an ninh như mạng cá nhân ảo, WAN, hoặc LAN đối với các cơ quan chính phủ cần có mức độ an ninh cao như quân đội.
Khung cơ sở hạ tầng thông tin chính phủ: Mạng chính phủ Hàn Quốc mới (NKN-G)
Mạng chính phủ Hàn Quốc mới (NKN-G) được xây dựng để nâng cao tính hiệu quả của các hoạt động của chính phủ và cung cấp dịch vụ công tại Hàn Quốc. Nó kết nối tất cả các chính quyền trung ương và địa phương, học viện, các tổ chức nghiên cứu và các trường đại học thông qua cáp quang.
NKN-G đã được hoàn thiện vào năm 2005, đã được phát triển trong một khuôn khổ dự án Cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia Hàn Quốc (NII). NII được bắt đầu triển khai vào năm 1992 do chính phủ lo ngại rằng nếu không xây dựng một cơ sở hạ tầng thông tin hư vậy, các ngành công nghiệp cơ bản của hàn Quốc sẽ không có khả năng cạnh tranh trên thị trường tonaf cầu. NII được coi là một phần của chính sách kinh tế quốc gia của hàn Quốc. NKN-G cho phép việc cung cấp dịch vụ công được nhanh chóng và đúng hạn nhằm hỗ trợ các mục tiêu của chính phủ về tính minh bạch, độ tin cậy và sự hiệu quả.
Việc xây dựng NII bao gồm cả việc phát triển một cơ sở hạ tầng thông tin tiên tiến, không chỉ liên quan đến các dịch vụ truyền thông mà còn cả các dịch vụ Internet, phần mềm ứng dụng, máy tính và các hệ điều hành cũng như các sản phẩm về dịch vụ và thông tin. Thông qua NII, người dân hàn Quốc có thể truy cập thông tin và dịch vụ và giao dịch kinh doanh 24 giờ ngày, 7 ngày một tuần.
Các lợi ích và rủi ro của việc có một khung cơ sở “nguồn mở” cho CPĐT?
Phần mềm “nguồn mở”, như hệ điều hành Linux, thường được phát triển bới các nhà lập trình cung cấp cải tiến mã nguồn miễn phí trên Internet. Có hai đặc tính chủ yếu xác định phần mềm nguồn mở. Một là, người sử dụng được truy cập tới mã nguồn. Điều này cho phép họ sửa đổi, nghiên cứu hoặc bổ sung các chức năng của phần mềm. ai là, các hợp đồng cấp phép cung cấp phần mềm ban đầu và cung cấp lại phần mềm đó dưới dạng cải tiến. Nếu người sử dụng tiến hành thay đổi đối với phần mềm, họ phải trình lên hội đồng các nhà phát triển để có thể tiếp tục tham gia trong các phiên bản phần mềm kế tiếp.
Phần meemfnguoonf mở đem lại một số lợi thế cho các hệ thống CPĐT. Thứ nhất, năng lực của phần mềm nguồn mở là có thể so sánh được, và trong một số trường hợp còn ưu việt hơn so với các phàn mềm đối thủ khác. Cát giảm chi phí cấp phép và chi phí phần cứng làm cho phần mềm nguồn mở trở nên hấp dẫn khi được đem ra so sánh.
Thứ hai, các giải pháp nguồn mở đảm bảo sự liên khai thác và truy cập cho tất cả người sử dụng, bất kể họ sử dụng các nền tảng (platform) độc quyền hay phàn mềm nguồn mở, cho phép tích hợp liên ngành một cách thuận lợi. Thực tế, phần mềm độc quyền muốn thu hút và duy trì khách hàng sẽ hỗ trợ việc tích hợp với các sản phẩm bên ngoài và các tiêu chuẩn toàn cầu. Thứ ba, phần mềm nguồn mở được lập cấu hình chính xác là một hệ thống vừa an ninh vừa độc quyền. Trên thực tế, một số người sử dụng tranh luận rằng, các hệ thống được xây dựng trên phần mềm từ một nhà sản xuất duy nhất thường dễ bị tấn công hơn các hệ thống được tích hợp phần mềm từ các nguồn khác nhau như Linux. Có rất nhiều lý do dẫn tới thực tế đó là phần mềm nguồn mở là công việc của các nhà lập trình trên toàn thế giới, những người cùng phối hợp xây dựng mã phần mềm. Mã phần mềm này sau đó lại được các nhà lập trình khác xem xét lại. Tính đa dạng làm cho nó trở nên không thể bị tấn công bởi virus. Điều này trái ngược với phần mềm nguồn đóng. Tính mở của nó cũng bảo đảm rằng phần mềm nguồn mở đã được xem xét kỹ về mặt an ninh. Thứ tư, chuyển sang phần mềm nguồn mở có thể là một phần của chiến lược chính phủ nhằm hạn chế nạn ăn trộm. Với phần lớn các giấy phép phần mềm nguồn mở, người ta chấp nhận mua một bản copy phần mềm và cài đặt trên nhiều máy khác nhau hoặc đơn giản là tải miễn phí từ Internet.
Tuy nhiên, cũng có những rủi ro trong vieecjswr dụng phầm mềm nguồn mở. Rủi ro đầu tiên là việc lựa chọn sử dụng phần mềm nguồn mở có thể làm cho việc cài đặt các sản phẩm không phù hợp với nhu cầu của người sử dụng. Chi phí của việc không đáp ứng các yêu cầu thiết yếu của CPĐT và các ứng dụng khác có thể lớn hơn chi phí tiết kiệm thực tế từ việc sử dụng nguồn mở. Thứ hai, khi chính phủ xác định chi phí trong việc tìm kiếm các nhân viên kỹ thuật trợ giúp và mở rộng các chức năng bổ sung trong các ứng dụng phần mềm, trên thực tế nguồn mở có thể tốn nhiều chi phí hơn so với phần mềm độc quyền. Những rủi ro khác liên quan đến sử dụng phần mềm nguồn mở là lo lắng về bản quyền và bằng sáng chế, tính tin cậy, an ninh và chất lượng. Phần mềm thương mại hay độc quyền tạo ra cảm giác an toàn thông qua việc gán các quyền cụ thể, xác định các hạn chế về mặt luật pháp và cung cấp chủ thể thương mạ danh tính mà về mặt lý thuyết thường ẩn đằng sau mã.
An toàn thông tin cho chính phủ điện tử
Hai vấn đề cần phải chú ý là xây dựng hạ tầng khóa công khai cho các cơ quan nhà nước và dịch vụ chứng thực điện tử. Trên quan điểm hệ thống CPĐT là một hệ thống lớn, cấu trúc phức tạp do việc triển khai xây dựng CPĐT có liên quan đến nhiều cấp, bộ, ngành khác nhau. Vì vậy, để để giải quyết vấn đề an toàn thông tin cho CPĐT cần có phương pháp tiếp cận toàn diện và có giải pháp tổng thể.
Trong dự án Phát triển CNTT và truyền thông tại Việt nam do Ngân hàng thế giới tài trợ cho Chính phủ Việt Nam được thực hiện từ năm 2006-2010 nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về CNTT-TT, hiện đại hóa Bộ Thông tin-Truyền thông, hiện đại hóa công tác thống kê của Tổng cục Thống kê, xây dựng nền tảng cho CPĐT TP. Hà Nội, Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh, do đó yêu cầu an toàn thông tin cũng là nội dung không thể thiếu trong các hạng mục liên quan của dự án.
Theo “Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước 2009-2010”, 5 nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin cho CPĐT cũng được xác định. Đó là: Xây dựng hạ tầng khóa công khai cho các cơ quan Nhà nước, xây dựng Trung tâm kỹ thuật an toàn mạng quốc gia,hoàn chỉnh hệ thống cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia và cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số, xây dựng hệ thống xác thực quốc gia, xây dựng Trung tâm kiểm thử các giải pháp CNTT phục vụ phát triển Chính phủ điện tử.
Khung Các chính phủ trên toàn thế giới tăng cường sử dụng nguồn mở
Các chính phủ xây dựng ngân sách CPĐT khác nhau. Tại châu Âu, các chính quyền địa phương, bang và liên bang chi 7,8 tỷ USD trong năm 2000, trong khi chính phủ Brazin chỉ tiêu khoảng 200 triệu USD cùng năm. Điều này cho thấy rằng phần lớn các quốc gia đang phát triển có thể không đủ khả năng trang trải các chi phí cho phần mềm bản quyền trong khi các phần mềm miễn phí hoặc có chi phí thấp đang xuất hiện ngày càng mạnh mẽ.
Một số nước đã triển khai các chính sách sử dụng phần mềm nguồn mở, trong khi những nước khác đang trong quá trình đưa các điều luật vào thực thi. Những nước tiên phong bao gồm Pháp, Đức, Anh, ý, Tây Ban Nha, trung Quốc, Singapore, Australia và Brazil.
Nhóm làm việc Ủy ban châu Âu về phần mềm Libre đã đưa ra một tài liệu về chính sách có tên gọi “Phần mềm miễn phí/nguồn mở: Các cơ hội xã hội thông tin cho Châu Âu”, trong đó khuyến nghị con đường nguồn mở cho việc nghiên cứu và phát triển các phần mềm được tài trợ bởi chính phủ cho tất cả các nước thành viên.
Trong bản dự thảo chính sách cuối cùng của Chính phủ Anh về phần mềm nguồn mở, được Văn phòng thương mại chính phủ (OGC) công bố vào tháng 7 năm 2002, chính phủ cho rằng, trong việc phát triển các ICT trong tương lai với tính liên khai thác là một vấn đề, chính phủ sẽ chỉ sử dụng các sản phẩm hỗ trợ các tiêu chuẩn và tiêu chí mở.
Ủy ban CPĐT của Pháp tuyên bố tháng 11/2001, cơ quan về CPĐT của Pháp có trách nhiệm lựa chọn các tiêu chuẩn mở để yêu cầu tất cả các cơ quan hành chính công thực hiện nhằm đảm bảo tính liên khai thác ở mức tối đa.
Chính phủ Đức tuyên bố vào năm 2002 rằng họ đang chuyển theo hướng tiêu chuẩn hóa việc sử dụng Linux và một mô hình nguồn mở tại cấp liên bang, bang và quận. Quyết định này được đưa ra với 3 mục tiêu chính: nâng cao mức độ an ninh về ICTthông qua việc tránh các vấn đề liên quan đơn văn hóa, giảm sự phụ thuộc vào một nhà cung cấp duy nhất và nâng cao việc tíết kiệm chi phí đối với các chi phí phần mềm và khai thác.
Tại trung Quốc, chính phủ đã chuyển sang lắp đặt hệ điều hành mã nguồn mở.
Linux được cung cấp bởi công ty Cờ Đỏ nhằm tránh khỏi sự phụ thuộc vào các công ty của Mỹ, đặc biệt là Microsoft./.








