Nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng chính sách kinh tế - Những vấn đề đặt ra
Bằng chứng về những thành tựu của Việt Nam trong quá trình đổi mới kinh tế những năm vừa qua đã khẳng định sự đóng góp của NCKH trong xây dựng/hoạch định chính sách. Tuy nhiên, trong vấn đề này cũng chứa đựng một số bất cập cần khắc phục.
Quan niệm về vai trò của NCKH trong phát triển kinh tế
Ở nước ta, vai trò của NCKH trong xây dựng chính sách phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng đã được quy định trong một số văn bản luật. Luật Khoa học và Công nghệ đã quy định, khoa học và công nghệ phải là căn cứ, là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ cũng yêu cầu các dự án đầu tư bắt buộc phải được thẩm định nội dung khoa học.
Xây dựng chính sách được hiểu là quá trình từ việc xác định vấn đề đến khi chính sách được ban hành và cả giai đoạn đánh giá chính sách sau khi nó được thực hiện. Có thể phác họa quy trình xây dựng chính sách nói chung, chính sách phát triển kinh tế nói riêng như sơ đồ.
![]() |
Một số đóng góp cơ bản
Trước hết, có thể khẳng định NCKH ở nước ta đã và đang có nhiều đóng góp quan trọng đối với quá trình xây dựng chính sách nói chung, chính sách kinh tế nói riêng. Thông thường, ở nhiều nước, cơ quan hành chính nhà nước là đơn vị thực hiện việc hình thành nội dung chính sách, còn ở nước ta, nhiệm vụ này lại do các cơ quan NCKH. Cụ thể, các nhiệm vụ hàng năm của các cơ quan nghiên cứu ở nước ta được xác định dựa trên nhu cầu nghiên cứu các chính sách của Đảng và Nhà nước (dựa trên các Văn kiện đại hội Đảng, kế hoạch hoạt động hàng năm của Chính phủ hoặc những yêu cầu trực tiếp của các cơ quan nhà nước…). Trên cơ sở những nghiên cứu của mình, các cơ quan nghiên cứu đã đưa ra những gợi ý về chính sách nhằm triển khai các nhiệm vụ để đạt được các mục tiêu đặt ra của Nhà nước. Do vậy, có thể nói, kết quả nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu ở nước ta đã góp phần thể chế hoá đường lối và chính sách nhà nước.
Trên thực tế, NCKH ở Việt Nam chủ yếu được thực hiện ở các viện nghiên cứu và các trường đại học. Hiện nay, Việt Nam có hơn 1.200 tổ chức khoa học và công nghệ, trong đó có gần 700 tổ chức NCKH của Nhà nước (bao gồm các viện trực thuộc các bộ, ngành, các trường đại học và cao đẳng), còn lại là thuộc tư nhân và các tổ chức chính trị, xã hội. Trong đó, số tổ chức khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực kinh tế chiếm tỷ trọng không nhỏ.
Ngoài ra, NCKH còn thể hiện vai trò trong hoạch định chính sách kinh tế qua nhiều kênh khác nhau. Đóng góp trực tiếp nhất là vai trò của các viện nghiên cứu thuộc các bộ, ngành. Nhiều chính sách kinh tế do các bộ, ngành chịu trách nhiệm xây dựng được trực tiếp soạn thảo bởi các viện nghiên cứu. Ví dụ, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời gian qua đã giúp Bộ chủ quản trực tiếp soạn thảo nhiều văn bản luật trong lĩnh vực Bộ phụ trách như: Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và nhiều văn bản dưới luật khác. Một kênh khác rất quan trọng mà NCKH đóng góp vào quá trình hoạch định chính sách là việc thực hiện các đề tài, hội thảo khoa học, thông qua các diễn đàn trao đổi, đóng góp cho xây dựng chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hàng năm, hàng trăm đề tài NCKH thuộc lĩnh vực kinh tế do các viện nghiên cứu, trường đại học được thực hiện. Mặc dù còn nhiều ý kiến chưa thống nhất về khả năng ứng dụng và tính thực tiễn của các kết quả nghiên cứu này nhưng một thực tế không thể phủ nhận là các kết quả đó đã phần nào cung cấp những gợi ý chính sách bổ ích để các cơ quan hoạch định chính sách kinh tế đưa vào nội dung chính sách.
Những hạn chế
Thứ nhất, sức sáng tạo, sự tìm tòi của các nhà nghiên cứu và các tổ chức nghiên cứu ở nước ta chưa được phát huy ở mức cao nhất. Đây là yếu tố giải thích tại sao NCKH chưa đóng góp nhiều cho giai đoạn xác định vấn đề trong quá trình xây dựng chính sách kinh tế. Các cơ quan nghiên cứu hiện nay chủ yếu tham gia vào quá trình “giải thích” các chủ trương, đường lối của Đảng, triển khai các kế hoạch của Nhà nước hơn là phát hiện, chỉ ra những vấn đề mang tính chiến lược, mới, có tính hóc búa để giúp Đảng và Nhà nước hình thành những định hướng lớn trong phát triển kinh tế. Việc các cơ quan nghiên cứu đề xuất những vấn đề chính sách đối với các cơ quan quản lý nhà nước còn rất hạn chế. Những tư tưởng lớn mang tính quyết định đến việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của đất nước vẫn chưa được các cơ quan nghiên cứu tìm ra những lời giải thích đáng như: Nội hàm của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là như thế nào; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác gì với nền kinh tế khác như thế nào; vai trò của doanh nghiệp nhà nước thực chất là gì và phải làm gì để đạt được điều đó…
Nguyên nhân của vấn đề xuất phát từ cách thức định hướng sử dụng các nhà nghiên cứu, cơ quan nghiên cứu của các nhà hoạch định chính sách. Bản thân các nhà hoạch định chính sách thường chỉ dừng ở việc đòi hỏi các cơ quan khoa học nghiên cứu các vấn đề nhằm thể chế hoá và hiện thực hoá chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; hoặc là, yêu cầu phát hiện và đề xuất những vấn đề mới, hóc búa của các cơ quan này đối với cộng đồng nghiên cứu chưa cao, chưa gay gắt và thậm chí chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, trong cộng đồng khoa học còn có tâm lý e ngại khi đề cập đến vấn đề được coi là “mới” hay là các vấn đề mang tính chất “nhạy cảm”.
Thứ hai, sự độc lập, tính khách quan và tính ưu việt của các kết quả NCKH đóng góp cho hoạch định chính sách kinh tế không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Những đề xuất chính sách của các cơ quan nghiên cứu nhiều khi còn bị áp đặt, ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách và lợi ích mang lại cho toàn bộ nền kinh tế. Điều này một phần là do mối quan hệ phụ thuộc giữa cơ quan nghiên cứu và cơ quan hoạch định chính sách (nhiều viện nghiên cứu trực thuộc các bộ, ngành lại tư vấn cho các bộ, ngành nên không tránh khỏi những ảnh hưởng nhất định từ cơ chế chủ quản đó). Mặt khác, yêu cầu về tính độc lập và tính khách quan trong quá trình tư vấn chính sách cũng chưa đặt ra một cách nghiêm túc. Bên cạnh đó, mức độ cạnh tranh và cơ chế cọ sát, kiểm định các kết quả nghiên cứu ở nước ta hiện nay còn yếu… Điều đó xuất phát từ đặc điểm tổ chức của các cơ quan nghiên cứu và tư vấn chính sách, một vấn đề hầu như đều giao cho một cơ quan nghiên cứu thực hiện, hiếm trường hợp nhiều đơn vị cùng nghiên cứu một vấn đề để tìm ra lời giải tối ưu nhất…
Thứ ba, khả năng đáp ứng nhu cầu của các cơ quan hoạch định chính sách chưa cao, còn xảy ra tình trạng lãng phí nguồn lực ở nhiều cơ quan nghiên cứu, hoặc nghiên cứu những vấn đề không có giá trị thực tiễn, hoặc chưa chuyển đổi các kết quả nghiên cứu dưới dạng đáp ứng nhu cầu sử dụng của các nhà hoạch định chính sách. Vẫn có hiện tượng khi các bộ, ngành không cần ý kiến tư vấn chính sách thì các cơ quan thực hiện nghiên cứu rất công phu, lại có lúc các bộ, ngành cần ý kiến tư vấn thì các viện lại không đáp ứng được. Nguyên nhân một phần là do cơ chế quản lý và cấp phát trong nghiên cứu đã tạo ra “tính ỳ” cho các cơ quan nghiên cứu này. Mặt khác, môi trường cạnh tranh trong việc tư vấn chính sách kinh tế chưa cao, do đó, chưa buộc các cơ quan nghiên cứu trong nước phải thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, cách thức huy động lực lượng nghiên cứu cho quá trình xây dựng chính sách chưa có một kế hoạch dài hơi mà một phần là do cách thức ban hành chính sách. Trong khi để có thể nghiên cứu một vấn đề chính sách thấu đáo, một trong những điều kiện quan trọng là có một khoảng thời gian nhất định thì trong nhiều trường hợp, thời gian mà các nhà hoạch định chính sách đặt ra cho các nhà nghiên cứu xây dựng chính sách lại thường rất ngắn. Do vậy, các sản phẩm khoa học thường không đáp ứng yêu cầu đặt ra hoặc là thiếu hoàn hảo. Bên cạnh đó, đánh giá chính sách là một khâu rất quan trọng để đảm bảo có những chính sách kinh tế đúng đắn và hợp lý, thế nhưng, hiện nay, việc này ở nước ta chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều chính sách được thực hiện nhưng không được đánh giá; do vậy, không có những điều chỉnh kịp thời. Điều này rất nguy hại bởi vì một chính sách thường chỉ có thể phù hợp trong một giai đoạn và hoàn cảnh nhất định nào đó chứ không phù hợp mãi mãi.
Thứ năm, thông tin đóng vai trò quan trọng trong NCKH, nhưng ở nước ta, hoạt động này còn nhiều bất cập, vừa thiếu, vừa khó tiếp cận. Có trường hợp, nhà khoa học cần phân tích vấn đề theo phương pháp hiện đại nhưng do thiếu thông tin (chính thống) nên không thể thực hiện được. Thêm vào đó, Luật Thống kê mặc dù đã có hiệu lực nhưng việc tiếp cận thông tin chính thức phục vụ nghiên cứu còn rất khó khăn. Hiện nay, chúng ta chưa có chế độ “minh bạch” hợp lý để các nhà kinh tế tiếp cận thông tin một cách dễ dàng. Hơn nữa, tính hệ thống, đầy đủ và tin cậy của thông tin chính thống, kể cả của Tổng cục Thống kê, vẫn còn nhiều hạn chế.
Trên đây là những mặt mạnh cũng như những vấn đề còn tồn tại của NCKH phục vụ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế. Nếu những hạn chế nêu trên được khắc phục và những mặt mạnh tiếp tục được phát huy thì trong tương lai, NCKH chắc chắn sẽ phát huy được mạnh mẽ vai trò của nó đối với việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế đất nước.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, 09/2006









