Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 19/12/2014 21:31 (GMT+7)

Nghiên cứu KH-CN lâm nghiệp: Tránh làm đề tài rồi "đắp chiếu"

Theo đánh giá của các chuyên gia, chỉ có khoảng 8-10% số công trình nghiên cứu được đưa vào áp dụng trong sản xuất (SX).

Thực trạng đáng buồn này đã được các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lí đưa ra mổ xẻ tại  Hội thảo xác định ưu tiên nghiên cứu phục vụ tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp  được Bộ NN-PTNT tổ chức hôm qua (18/12).

Chỉ thấy keo, bạch đàn

Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp giai đoạn 2013-2020 đã chỉ ra mục tiêu đưa ngành lâm nghiệp nước ta từng bước chuyển đổi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và tăng năng lực cạnh tranh, tăng thu nhập cho người trồng rừng.

Theo đó, mục tiêu cụ thể là tăng giá trị SX bình quân 4-4,5%/năm bằng các giải pháp nâng cao chất lượng rừng, đặc biệt là rừng trồng gỗ lớn có giá trị hàng hóa theo hướng thương mại. Đề án đặt mục tiêu nâng trữ lượng rừng tự nhiên lên mức 4-5 m3/ha (tăng 25% so với hiện nay), tăng năng suất rừng trồng lên mức bình quân 15 m3/ha/năm, trong đó tỉ lệ gỗ thương phẩm bằng 80% trữ lượng và phấn đấu đạt 40% gỗ lớn, 60% gỗ nhỏ...

Một trong những vấn đề then chốt để thực hiện những mục tiêu này, đó là phải giải quyết được vấn đề giống cây lâm nghiệp gỗ lớn có giá trị, tăng trưởng nhanh, mà trước mắt là phải đưa tỉ lệ giống mới được công nhận vào SX lên từ 60-70% vào năm 2020, trong đó giai đoạn 2013-2020 phải tạo được ít nhất 10-15 giống mới. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng nghiên cứu giống lâm nghiệp hiện nay, xem ra để thực hiện được mục tiêu này là bài toán nan giải.

GS.TS Nguyễn Xuân Quát (Viện Quản lí rừng bền vững và Chứng chỉ rừng) cho biết: Tính đến năm 2014, đã có tổng cộng tới 192 giống lâm nghiệp mới được công nhận, gồm 27 giống quốc gia và 165 giống tiến bộ kỹ thuật.

Tuy nhiên, điều đáng buồn là trong 10 năm qua, theo đánh giá chỉ có khoảng 30% số giống mới này được đưa vào ứng dụng trong SX. Đáng nói là trong số này, chiếm hầu hết vẫn là các giống phổ thông như keo, bạch đàn, tràm...

Đề xuất cho phương hướng nghiên cứu giống trong giai đoạn tới, nhiều quan điểm trái chiều đã được đưa ra. TS Nguyễn Hoàng Nghĩa (Viện KHLN Việt Nam) cho rằng, nhóm cây rừng trồng chủ lực giai đoạn tới vẫn nên xác định gồm một số giống như keo lá tràm, keo tai tượng, keo lai; một số giống bạch đàn như bạch đàn Uro, bạch đàn lai và một số giống thông...

Theo đó cần tiếp tục đầu tư cho việc chọn giống năng suất, chất lượng, chống chịu nhằm tăng năng suất khoảng 1,5 lần cho nhóm cây này, đồng thời ứng dụng công nghệ sinh học vào chọn giống như chuyển gen sinh trưởng, gen kháng bệnh, chọn tam bội, cấy phôi sô-ma...

Theo TS Nguyễn Quang Dương, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Tổng cục Lâm nghiệp - Bộ NN-PTNT), hiện ngành lâm nghiệp cũng đã xây dựng hàng chục mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn và mô hình chuyển hóa rừng cung cấp gỗ nhỏ sang gỗ lớn đối với keo lai và keo tai tượng tại 6 tỉnh gồm Bắc Giang, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Trị, Đăk Nông và Cà Mau với diện tích mỗi mô hình khoảng 20 ha.

Ông Phạm Đức Tuấn, nguyên Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho rằng, việc xác định sản phẩm chiến lược cho ngành lâm nghiệp mới là vấn đề quan trọng nhất. “Tại sao lại phê phán chúng ta chỉ có nghiên cứu ra toàn giống keo và bạch đàn? Brazin, Chile họ chỉ đầu tư mỗi cây bạch đàn thôi, năng suất gỗ tới 50-70 m3/ha/năm. Malaysia họ chỉ chú trọng mỗi cây cọ, mỗi năm đem về tới 25 tỉ USD. Vấn đề không phải là giống gì mà là chúng ta xác định cây nào có thế mạnh chủ lực. Keo hay bạch đàn mà tốt, cạnh tranh được, đem lại hiệu quả cao thì tại sao lại phê phán?” – ông Tuấn nêu quan điểm.

Trái với quan điểm ông Tuấn, GS.TS Nguyễn Xuân Quát phản biện: Về chọn loài, đến nay chúng ta đã chọn được 146 loài và giống cây lâm nghiệp, trong đó có 58 loài và giống cây chủ yếu cho rừng SX và rừng phòng hộ có chất lượng rất tốt, điều này cho thấy không hẳn chúng ta thiếu bộ giống lâm nghiệp tốt, sinh trưởng nhanh, khỏe, chống chịu, cho gỗ lớn, chất lượng cao...

Tuy nhiên lâu nay, việc chọn giống mới bản địa để đưa ra SX không được chú trọng, mà chủ yếu đi nhập ngoại các loài keo, bạch đàn ưa sáng, mọc nhanh về trồng theo kiểu “ăn xổi”. Điều này đang khiến bạch đàn, và nhất là keo đang trở thành cây lâm nghiệp phủ kín khắp mọi nơi.

90% đề tài “đắp chiếu” đang ở đâu?

Vì sao số lượng đề tài nghiên cứu, đặc biệt về giống lâm nghiệp không thiếu, nhưng tỉ lệ ứng dụng thực tiễn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay? Ông Phạm Đức Tuấn, nguyên Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho rằng, cơ chế nghiên cứu đang khiến hàng loạt các đề tài khoa học lâm nghiệp đắp chiếu.

Theo ông Tuấn, nghiên cứu cây lâm nghiệp có đặc thù khác hẳn với các lĩnh vực khác như trồng trọt, chăn nuôi khi đòi hỏi phải có đầu tư lớn, thời gian dài, cần quỹ đất thực nghiệm rất lớn.

Cụ thể, một đề tài nghiên cứu giống lâm nghiệp chí ít cũng phải cần 10 ha đất, thậm chí có đề tài phải cần tới 80-100 ha đất thực nghiệm, tuy nhiên để tìm ra diện tích đất như vậy hiện nay không dễ.

Về thời gian, ông Tuấn cho rằng việc bó buộc đề tài chỉ 3-5 năm khiến hầu hết các đề tài đều dang dở, chưa thể ra sản phẩm cuối cùng. “Có đề tài triển khai phải đến 4 năm mới bố trí xong thí nghiệm thì đã phải báo cáo nghiệm thu. Kết quả chưa có gì nhưng vẫn phải báo cáo sản phẩm trên giấy. Đề tài lâm nghiệp mà chỉ có 3-5 năm thì tỉ lệ ứng dụng dưới 10% sẽ còn tiếp diễn” – ông Tuấn ngán ngẩm.

Với thực trạng hàng loạt đề tài nghiên cứu lâm nghiệp dang dở, TS Vũ Tiến Thịnh, Phó Viện trưởng Viện Sinh thái rừng và Môi trường đặt câu hỏi: Hiện mới chỉ 8-10% số nghiên cứu được đưa ra ứng dụng thời gian qua, vậy hơn 90% nghiên cứu còn lại đang nằm ở đâu? Nên chăng cần phải rà soát lại để lôi các nghiên cứu này ra nghiên cứu tiếp theo chứ không thể bỏ dở vô cùng lãng phí.

“Rất nhiều nghiên cứu bị đắp chiếu không phải là không có giá trị, nhưng do đang nghiên cứu dở thì hết hạn, phải nghiệm thu vội vàng. Vì vậy các đề tài có giá trị phải được tiếp tục hoàn thiện” – ông Thịnh nêu ý kiến.

Đồng tình với ông Thịnh, GS.TS Đỗ Đình Sâm (Viện KHLN Việt Nam) cho rằng, hiện nay việc nghiên cứu lâm nghiệp đề tài nhiều nhưng mạnh ai nấy làm. Vì vậy thời gian tới, Bộ NN-PTNT cần phải có các nhóm đề tài theo hướng liên kết theo chuỗi với nhau hoặc chia thành các pha để sản phẩm có thể hoàn thành tới cuối cùng. Cũng theo ông Sâm, việc nghiên cứu phải lấy DN làm trung tâm, điều này hiện nay ngành lâm nghiệp đang rất lỏng lẻo.

“Tôi không hiểu sao rất nhiều hội nghị về ngành lâm nghiệp nhưng chỉ có các nhà khoa học ngồi bàn với nhau mà chẳng thấy anh DN nào. Xét cho cùng thì nghiên cứu là để SX, mà SX thì phải có DN. Chúng ta ngồi bàn với nhau mà không có DN thì không hiểu bàn để làm gì” – ông Sâm ngao ngán.

Về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, Vụ trưởng Vụ KH-CN và Môi trường (Bộ NN-PTNT) cho biết thêm, rất nhiều hội nghị tái cơ cấu ngành nông nghiệp gần đây, kể cả hội nghị do Phó Thủ tướng chủ trì, DN trong ngành lâm nghiệp luôn vắng bóng, mặc dù đơn vị này đã nhiều lần đánh giấy mời.

Xem Thêm

Phú Thọ: Đề xuất xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
Sáng 26/11, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; đề xuất khâu đột phá và một số nhiệm vụ trọng tâm phục vụ xây dựng dự thảo Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030” đối với đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà KH thuộc các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Quảng Ngãi: Tìm giải pháp hoạt động có hiệu quả cho hợp tác xã
Sáng ngày 26/11, tại thành phố Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học tư vấn phản biện “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2025 – 2030”.
Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…

Tin mới

Phát triển kinh tế báo chí trong chuyển đổi số
Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ, đặc biệt là sự thay đổi mạnh mẽ trong hệ sinh thái truyền thông, chuyển đổi số là một trong những giải pháp cấp thiết và quan trọng hàng đầu nhằm đạt mục tiêu “hiện đại hóa” hoạt động báo chí theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”.