Nghị quyết Trung ương 7 và một số vấn đề về công tác chuẩn bị Đại hội lần thứ VI Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Về đội ngũ trí thức Việt Nam
Cùng với việc xác định nội dung cơ bản của khái niệm trí thứcở nước ta, Nghị quyết Trung ương 7 đã nêu lên thực trạng của đội ngũ trí thức và mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới.
Về sự phát triển và đóng góp của đội ngũ trí thức, Nghị quyết khẳng định: “Đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xoá đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống... Đa số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc”. Đồng thời Nghị quyết cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kémcủa đội ngũ trí thức và những nguyên nhân gây ra tình trạng đó.
Nghị quyết Trung ương 7 cũng đề ra mục tiêulà “Đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí”.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, các giải pháp chủ yếu được nêu ra trong Nghị quyết là: Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức; Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức; Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.
Về Liên hiệp hội Việt Nam trong thời kỳ mới
Về Liên hiệp hội Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 7 có đoạn: “Nâng cao nhận thức của cấp uỷ Đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc về vị trí, vai trò của các hội trí thức, đặc biệt là Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam..., trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.”
Nghị quyết Trung ương 7 cũng chỉ rõ “cần củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam... từ trung ương đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức”.
Với quy mô tổ chức không ngừng phát triển, nội dung và phương thức hoạt động ngày càng phong phú và đa dạng, từ hơn 10 năm nay, Liên hiệp hội Việt Nam được xác định là tổ chức chính trị - xã hội của tri thức khoa học và công nghệ nước nhà. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, đến nay nội dung đó vẫn chưa được quán triệt sâu sắc đúng mức trong nhận thức và hành động của một số cơ quan của Đảng và Nhà nước ở cả Trung ương và các địa phương. Vấn đề đặt ra lúc này là tiếp tục khẳng định tính chất chính trị - xã hội của tổ chức đó từ trung ương đến địa phương, trong cả nước và ở từng cơ sở.
Một vấn đề quan trọng khác là kiên định chủ trương và xác định các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng Liên hiệp hội Việt Nam thành một tổ chức vững mạnh, có khả năng và điều kiện điều hoà và phối hợp hoạt động của hơn một trăm hội thành viên, tập hợp và đoàn kết ngày càng đông đảo trí thức hoạt động trên mọi lĩnh vực khoa học và công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và ở nước ngoài.
Là đại diện của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước nhà, Liên hiệp hội Việt Nam cần tích cực góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 7, củng cố, phát triển tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả mọi mặt hoạt động như hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, hoạt động xã hội hoá khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khoẻ, xoá đói giảm nghèo, hoạt động tôn vinh trí thức, hoạt động hợp tác quốc tế.
Cùng với việc đề cao sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, một nội dung hết sức quan trọng là chỉ rõ trách nhiệm của cấp uỷ và chính quyền các cấp trong việc cụ thể hoá và thể chế hoá chủ trương của Đảng đối với Liên hiệp hội Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hội ở trung ương và địa phương hoạt động có hiệu quả.
Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) ra đời mười năm sau Chỉ thị 35-CT/TW. Sau mười năm tiếp theo đó, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) đã thông qua Nghị quyết 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là thời điểm thích hợp để hình thành một văn kiện mới của Đảng chỉ đạo sự phát triển và hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam .
Đây cũng là dịp để các cơ quan quản lý nhà nước chỉnh sửa hoặc thay thế một số quy định không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, trong đó có Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 của Chính phủ, Chỉ thị 14/2000/CT-TTg ngày 01/08/2000 và Quyết định 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Các văn bản pháp quy mới cần tạo điều kiện để các hội trí thức thực hiện các dịch vụ công, tham gia cấp chứng chỉ hành nghề; giám sát hoạt động nghề nghiệp, trong đó có hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội.
Về công tác chuẩn bị cho Đại hội VI
Cuối năm 2009 là thời điểm kết thúc nhiệm kỳ V (2004 - 2009) và tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Liên hiệp hội Việt Nam . Thời gian không còn nhiều, mà công tác chuẩn bị cho Đại hội lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Trước hết, trên cơ sở tổng kết mười năm thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII), cần xây dựng một bản báo cáo về tình hình và kết quả hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên, nêu lên những điểm mạnh và điểm yếu, chỉ ra những bài học thành công và chưa thành công. Căn cứ kết quả nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Trung ương 7 và các văn kiện quan trọng khác của Đảng và Nhà nước, tổng kết thực tiễn, kết hợp với kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế, bản báo cáo cũng cần đề ra chính xác những phương hướng trước mắt và lâu dài cho việc phát triển tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam.
Năm năm qua, trên đất nước ta đã diễn ra những thay đổi to lớn. Cùng với những thành tựu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước ta đang từng bước trải qua quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Liên hiệp hội Việt Nam không ngừng mở rộng quy mô tổ chức và đẩy mạnh mọi mặt hoạt động. Đó là những căn cứ để chuẩn bị cho Đại hội xem xét điều chỉnh, bổ sung các quy định trong Điều lệ do Đại hội lần thứ V thông qua.
Một nội dung quan trọng của công tác chuẩn bị là dự kiến quy mô, cơ cấu và thành phần các đại biểu tham dự Đại hội và các cơ quan lãnh đạo của Liên hiệp hội Việt Nam trong nhiệm kỳ tới. Quy mô tổ chức đã mở rộng của Liên hiệp hội Việt Nam đặt ra yêu cầu xác định lại số lượng đại biểu của các hội thành viên tham gia Hội đồng Trung ương sao cho vừa đảm bảo tính đại diện của tất cả các hội thành viên, lại vừa tránh cho Hội đồng Trung ương khỏi quá cồng kềnh. Mặt khác, Đoàn chủ tịch cũng cần áp dụng các tiêu chí thống nhất và khách quan trong việc xét chọn và giới thiệu một số cá nhân (khoảng 15%) vào Hội đồng Trung ương, ngoài các đại biểu do các hội thành viên đế cử.
Theo Điều lệ hiện hành, Đoàn Chủ tịch thay mặt Hội đồng Trung ương chỉ đạo và kiểm tra toàn bộ hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam giữa hai kỳ họp của Hội đồng Trung ương. Để có thể hoàn thành được nhiệm vụ đó, Đoàn Chủ tịch nên ưu tiên bao gồm những uỷ viên có nhiệt tình và điều kiện hoạt động thực sự cho Liên hiệp hội Việt Nam, ít nhất thì cũng tham dự được đầy đủ các buổi sinh hoạt của Đoàn Chủ tịch và đóng góp những ý kiến thiết thực cho việc giải quyết các vấn đề do sự phát triển và hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam đặt ra. Nhiệm vụ đó cũng đòi hỏi Đoàn Chủ tịch làm việc thực sự dân chủ, trên tinh thần công minh, công bằng, công khai. Đó là cách tốt nhất để đảm bảo sự đoàn kết, tính thống nhất và hiệu quả hoạt động của Đoàn chủ tịch.
Điều đặc biệt quan trọng là việc lựa chọn cán bộ chủ chốt cho Liên hiệp hội Việt Nam . Người cán bộ chủ chốt có thể sẽ làm việc cho Liên hiệp hội Việt Nam theo chế độ chuyên trách hay kiêm nhiệm. Dù làm việc theo chế độ nào thì cán bộ chủ chốt cũng cần phải là người tiêu biểu cho trí thức khoa học và công nghệ nước nhà cả về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn. Độ tuổi, sức khoẻ, nhiệt tình và năng lực công tác hội cũng là những tiêu chí cần xem xét.
Là tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cho trí thức khoa học và công nghệ nước nhà, Liên hiệp hội Việt Nam cần có cán bộ chủ chốt là nhà khoa học thực sự, đã hoặc đang hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các trường đại học hoặc viện nghiên cứu trọng điểm. Cán bộ chủ chốt của Liên hiệp hội Việt Nam là người nêu gương sáng tạo, khắc phục khó khăn, có những công trình và cống hiến khoa học to lớn, có tác dụng góp phần thiết thực giải quyết thành công một số vấn đề bức xúc của đất nước. Đó cũng là người có uy tín khoa học, được đông đảo các nhà khoa học và công nghệ thừa nhận.
Người cán bộ chủ chốt làm việc cho Liên hiệp hội Việt Nam theo chế độ chuyên trách còn cần có năng lực quản lý. Trong trường hợp người cán bộ chủ chốt làm việc cho Liên hiệp hội Việt Nam theo chế độ kiêm nhiệm thì trong bộ máy lãnh đạo cần có người hoặc những người thực sự có khả năng, điều kiện, thực sự thành tâm, tận tuỵ giúp người cán bộ chủ chốt hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Việc lựa chọn đúng đắn cán bộ chủ chốt sẽ là điều kiện tiên quyết đối với thành công của Đại hội VI cũng như sự phát triển tổ chức và hiệu quả hoạt động trong nhiệm kỳ tới của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam .








