Nghề thầy
Nay xin lấy phương Tây làm ví dụ, đó là nơi nền giáo dục ra đời chậm nhưng lại đưa đến những kỷ nguyên khoa học và huy hoàng nhất.
Cái biết của người Việt trải qua nhiều thế kỷ tìm thế thăng bằng trong Nho, Phật, Lão học. Giữa ba vị ấy thì Nho giáo giữ chức năng thống nhất giáo dục nhất quán từ tiểu học đến hết đại học gọi là cửa Khổng sân Trình. Còn Lão và Phật học thì vẫn giữ truyền thống của nhà mình, đi truyền thụ giáo lý lang thang giữa trời đất, hoa cỏ.
Ở phương Tây, việc học được tiến hành với phương pháp “ngoại truyền” của vị “sư phụ” Socrates. Ông bắt đầu vừa đi vừa giảng bài cho các môn đồ và thuyết ý niệm nổi tiếng đã khai sinh ra đại bộ phận của triết học phương Tây cũng bắt đầu từ đấy. Sau Socrates, phương pháp “ngoại truyền” kết thúc.
Một đại đệ tử của ông, một tên tuổi lẫy lừng của triết học cổ Hy Lạp, chính là Platon đã xây dựng một trung tâm giáo dục mới, gọi là Lycée.
Và sau đó, một đại đệ tử của Platon, Aristote, lại dựng nên cơ sở mới là Hoàng Lâm Viện (CadéMie). Từ nay, mọi việc giảng huấn đều được thực hiện ở trường lớp. ở đó, người tham dự chỉ việc ghi lại lời giảng vào vở và các phương pháp truyền thụ cũng bắt đầu thay đổi để thích nghi với môi trường mới.
Về mặt truyền thụ, phương pháp vừa đi dạo vừa dạy của Socrates được ông gọi là phép đỡ đẻ “cho các ý tưởng”. Ở đó, ông đưa ra luận điểm mới của triết học rằng “con người, hãy tự biết lấy mình” vốn là một câu chuyện châm ngôn ghi lại trên đền thờ Delphe hoang phế.
Đến thời kỳ học viện, Platon lại dùng phương pháp huyền thoại với Lycée và Aristote sử dụng phương pháp tam đoạn luận hình thức nhằm phát triển các ý niệm theo hình thái logic học, dựa trên “những nguyên tắc cơ bản của lý trí”. Đến đây thì việc giảng dạy đã được khoa học hóa hoàn toàn. Và Socrates được xem như ông tổ của triết học duy tâm phương Tây.
Tôi đã có dịp về thăm huyện Khúc Phụ, nơi quê hương xưa cách đây khoảng 2.500 năm, Khổng Tử đã ngồi san định lại những kinh sách của Nho giáo.
Trên một quãng đường dài độ vài trăm mét có những cây tùng cổ mọc hai bên. Những cây tùng thân có bướu và rễ nhập vào nhau, dợn sóng chi chít trên mặt đường. Hướng dẫn viên du lịch cho biết rằng ngày xưa, Khổng Tử thường dẫn học trò vừa bách bộ trên đường này vừa giảng bài, những bài học đó về sau được góp lại và sau này thành sách Luận ngữ.
Từ đó, trải qua hơn 1.000 năm, qua các triều đại của chế độ phong kiến Việt Nam, Nho giáo vẫn là sức mạnh chủ lực bồi đắp nhân tài của nền văn hóa nước ta.
Về sau, đến khi các sĩ tử công khai bác bỏ Nho giáo thì cách biểu đạt tư tưởng vẫn gồm có chủ đề, phản đề và tổng hợp đề bao hàm tính biện chứng của triết học Hêghen. Các vấn đề được trình bày bao hàm một đối thoại dài, trong đó tác giả chiếm lĩnh một phần của cuộc tranh luận.
Thảng hoặc, cuộc tranh luận cũng bỏ ngỏ cho khả năng đáp án. Theo đó, người tham dự có thể tự mình rút ra kết luận của vấn đề, ví dụ như bài ca dao “con cò mà đi ăn đêm...”. Cũng trong chiều hướng này, ta có thể kể đến một thể loại ca dao của vùng Thừa Thiên – Huế, gọi là hò đâm bắt. Nhưng cần chú ý đến một yếu tố bất biến của phương pháp giáo dục xưa và nay của Việt Nam dưới ánh sáng Nho giáo.
Đó chính là nhân cách hoàn chỉnh của “sư phụ” và người thầy không chỉ dạy văn mà còn dạy đạo. Và đấng “sư phụ” phải được tuân thủ không chỉ như một nhà chuyên môn về học thuật mà còn được quan niệm như một mô hình văn hóa. Những bậc thầy nổi tiếng của văn hóa Việt Nam xưa và nay như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Đào Duy Từ, Nguyễn Đình Chiểu... đều như vậy.
Đấy là chưa nói đến một phương pháp truyền đạt khác, gọi là tâm truyền, dành riêng cho các thiền sư Phật giáo, trong đó luận điểm được đưa ra gọi là công án. Giáo cụ thường được các “sư phụ” yêu thích là tiếng hét và cây gậy giới trượng.
Trong truyền thống của văn hóa Việt Nam, người trí thức Việt Nam đến trường học không phải chỉ để học chữ mà còn để được dạy về “đạo làm người”.








