Nét mới trong hoạt động quản lý KH&CN của các huyện, thành, thị Nghệ An năm 2011
1. Các mô hình ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống
Những năm gần đây, trên địa bàn các huyện xuất hiện nhiều mô hình mới, bước đầu đã có những thành công nhất định, tuy nhiên do sản xuất manh mún lại không áp dụng hợp lý các tiến bộ KH&CN nên chưa thực sự phát huy được thế mạnh của mỗi vùng miền. Nhận thấy điều đó, một số huyện đã đề xuất và xây dựng các mô hình ứng dụng tiến bộ KH&CN nhằm nâng cao năng suất và chất lượng trong sản xuất, đồng thời tạo tính bền vững để phát triển lâu dài.
Có thể kể đến như mô hình nuôi nhím thương phẩm của huyện Đô Lương, Anh Sơn. Nắm bắt được ưu thế nhím là động vật quý hiếm đã mang lại siêu lợi nhuận cho người chăn nuôi, kỹ thuật nuôi tương đối đơn giản, thức ăn có sẵn và ít bệnh tật, các huyện Đô Lương và Anh Sơn đã triển khai xây dựng mô hình “Nuôi nhím thương phẩm với quy mô 4 cặp”.
Một số huyện như Hưng Nguyên, Tân Kỳ lại chọn “Xây dựng mô hình nuôi gà đồi và gà đen với quy mô 500 con”để tận dụng lợi thế vườn đồi và đáp ứng thị hiếu “ưa chuộng gà đồi, gà sạch” của người tiêu dùng để tăng lợi nhuận trong chăn nuôi.
Huyện Nam Đàn có sự táo bạo khi chọn “Xây dựng mô hình nuôi baba gai (Trionyx steinacheri) trong bể xi măng”để phát triển kinh tế tại các hộ gia đình. Đây là mô hình cần đầu tư lớn (chủ yếu là đối ứng của các trang trại) bởi con giống lên tới 500.000 đồng/con. Tuy nhiên, đây cũng là điều kiện để các trang trại bứt phá trong nâng cao thu nhập và chuyển đổi cơ cấu vật nuôi.
Các huyện có đặc thù riêng về khí hậu và tập quán sản xuất lại lựa chọn các mô hình mang tính chất đặc trưng để tạo ra các đặc sản như: Tương Dương “Xây dựng mô hình nuôi lợn rừng lai, quy mô 10 con”; Quế Phong “Mở rộng mô hình sản xuất hoa ly”.
Một số huyện khác như Con Cuông và Quỳ Hợp đã ứng dụng những thành tựu nổi bật của tiến bộ KH&CN tỉnh nhà thông qua “Xây dựng mô hình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ phế phụ phẩm nông nghiệp bằng chế phẩm UD1”(của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Nghệ An) cho các hộ gia đình nhằm tận dụng tốt các phế, phụ phẩm, biến thành loại phân có chất lượng để nâng cao năng suất cho cây trồng.
Các huyện ven biển có những vùng đất nước lợ đã biết biến cái bất lợi thế khi chọn “Xây dựng mô hình nuôi cá vược thương phẩm”. Cá vược có thể nuôi ở cả môi trường nước ngọt, nước mặn và nước lợ nên góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi, tăng tính bền vững của nghề nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, trong điều kiện xâm thực mặn đang có xu hướng phát triển mạnh như hiện nay thì mô hình này có thể xem là bước “đi tắt đón đầu” nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nhằm phát huy lợi thế đất đai và nguồn nhân lực tại địa phương, qua đó phát triển đa dạng cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, Nghĩa Đàn đã triển khai “Xây dựng mô hình trồng chuối tiêu (Cavendish sp) sạch bệnh bằng phương pháp nuôi cấy mô in vitro quy mô 1ha”. Chuối tiêu là cây dễ trồng và không tốn công chăm sóc, thị trường tiêu thụ dễ dàng nên mô hình này có thể là một bước chuyển mình trong thay đổi cơ cấu cây trồng trên vùng đất Nghĩa Đàn.
Trong điều kiện “đất chật người đông”, thị xã Thái Hòa lựa chọn “Xây dựng mô hình trồng măng Tây xanh với diện tích 0,4ha”. Bởi đây là đối tượng trồng mật độ cao, diện tích không cần lớn nhưng lại cho thu nhập cao và đầu ra ổn định.
Cũng đã có nhiều đề tài được triển khai đạt hiệu quả bước đầu nhất định, tuy nhiên do nhiều điều kiện khác nhau mà chưa được nhân rộng và chưa phát huy hết hiệu quả. Trong số đó, đề tài “Hỗ trợ xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý tại bệnh viện đa khoa Nghi Lộc”đã nghiệm thu đạt kết quả xuất sắc, phần mềm QLBV.MA08 được đánh giá là phần mềm thông minh, thân thiện và hữu ích trong quản lý các cơ sở y tế. Nhận thấy điều đó, huyện Nghi Lộc đã lựa chọn “Tập huấn, chuyển giao phần mềm quản lý bệnh viện: QLBV.MA08 cho 10 trạm y tế xã”nhằm đưa công nghệ thông tin ứng dụng trong quản lý và điều hành nhằm nâng cao hiệu quả khám và điều trị bệnh cho các trạm y tế. Ứng dụng công nghệ vào chế biến nông sản mang lại thu nhập cao và tạo đầu ra ổn định cho nông sản cũng là hướng đi cần thiết trong nền kinh tế thị trường nên huyện Thanh Chương đã “Xây dựng mô hình chiết xuất và chế biến tinh dầu sả”.
Những mô hình trên đây dù chỉ thực hiện trên quy mô nhỏ nhưng có ý nghĩa to lớn, bởi đây chính là nơi thử nghiệm các tiến bộ mới trong KH&CN để tiến tới xây dựng quy mô lớn (thông qua các đề tài, dự án KH&CN hoặc huyện chủ động nhân rộng ra diện rộng). Mặt khác, khi thực hiện các mô hình này, nguồn ngân sách KH&CN chỉ hỗ trợ 40-50% giống (hoặc nguyên vật liệu, năng lượng) nên phần lớn nguồn kinh phí để hoàn thiện là do người dân đối ứng. Đó cũng chính là cơ sở để từng bước xã hội hóa hoạt động KH&CN. Quan trọng hơn, thông qua các mô hình này, người dân được tập huấn các quy trình kỹ thuật, có điều kiện tiếp cận với các tiến bộ KH&CN để tự làm chủ các công nghệ mới, áp dụng vào sản xuất và đời sống một cách hiệu quả nhất.
![]() |
2. Xây dựng nhãn hiệu tập thể cho các đặc sản trên địa bàn huyện
Nhãn hiệu tập thể thường được định nghĩa là các dấu hiệu phân biệt nguồn gốc địa lý, nguyên vật liệu, mô hình sản xuất hoặc các đặc tính chung khác của hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp (hộ sản xuất) khác nhau cùng sử dụng nhãn hiệu tập thể. Chủ sở hữu có thể là hiệp hội mà các doanh nghiệp (hộ sản xuất) là thành viên hoặc chủ thể khác là một tổ chức công hoặc một hợp tác xã. Do đó, xây dựng nhãn hiệu tập thể là công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp (hộ sản xuất) trong việc hỗ trợ họ vượt qua những thách thức vì quy mô nhỏ và sự phân lập trên thị trường, tạo ra được sự nhận biết và sự trung thành của người tiêu dùng.
Nhận thấy lợi ích to lớn đó, các huyện Quỳ Châu, Đô Lương và Cửa Lò đã tổ chức triển khai xây dựng nhãn hiệu tập thể. Cụ thể: Quỳ Châu “Xây dựng và phát triển nhãn hiệu cho sản phẩm hương trầm Quỳ Châu”; Đô Lương “Xây dựng nhãn hiệu tập thể cho làng nghề bánh đa, kẹo lạc Vĩnh Đức”; Cửa Lò “Xây dựng nhãn hiệu tập thể cho làng nghề chế biến nước mắm khối Hải Giang I”.
Việc xây dựng nhãn hiệu tập thể cũng nhằm khuếch trương các sản phẩm mang đặc trưng của một vùng nhất định, cung cấp cơ sở cho việc hợp tác giữa những nhà sản xuất trong vùng. Mặt khác, một nhãn hiệu tập thể có thể được sử dụng để thực hiện các đặc trưng đó và là cơ sở để marketing các sản phẩm, do đó đem lại lợi ích cho tất cả các nhà sản xuất. Hơn nữa, nó còn cho phép các doanh nghiệp (các hộ sản xuất) phân biệt hàng hóa của mình với hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh, trong khi cùng thu được lợi ích từ sự tin tưởng của người tiêu dùng.
Vì vậy, việc xây dựng nhãn hiệu tập thể cho các đặc sản trên địa bàn khác huyện đã góp phần quản lý và phát triển “thương hiệu” để các đặc sản của xứ Nghệ ngày càng phát triển và bền vững.
3. Xây dựng kế hoạch hoạt động KH&CN dài hạn giai đoạn 2011-2015
Việc tổ chức nghiên cứu, xây dựng kế hoạch hoạt động KH&CN dài hạn trên địa bàn huyện để có kế hoạch phát triển cụ thể cho từng đối tượng và lĩnh vực là rất cần thiết. Bởi thông qua đó, các huyện có thể đánh giá, phân tích một cách tổng quan hiện trạng hoạt động KH&CN giai đoạn 2001-2010, từ đó đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp, đảm bảo cho phát triển KH&CN đúng hướng, phù hợp với từng giai đoạn, từng vùng miền cụ thể, trở thành động lực, nguồn lực phục vụ đắc lực, có hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu phát triển và tăng trưởng kinh tế của các huyện. Vì vậy, các huyện: Đô Lương, Yên Thành và thị xã Cửa Lò đã tổ chức triển khai “Xây dựng kế hoạch KH&CN dài hạn giai đoạn 2011-2015”.
Xây dựng các mô hình mới để ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống, xây dựng nhãn hiệu tập thể cho các đặc sản trên địa bàn huyện hay triển khai xây dựng kế hoạch hoạt động KH&CN dài hạn giai đoạn 2011-2015 là những nét mới trong từng bước tạo thế chủ động cho cấp huyện năm 2011. Đây chính là hướng đi cần thiết và tất yếu để từng bước tạo thế chủ động cho cấp huyện mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống, thông qua xây dựng các mô hình cũng giúp cho người dân được tiếp cận với các tiến bộ mới, tạo cho họ bước vào một phương thức sản xuất khoa học và hiệu quả. Hơn thế nữa, những nét mới của hoạt động quản lý KH&CN trên địa bàn huyện năm nay còn tạo đà cho phát triển KH&CN trong những năm tiếp theo nhằm từng bước xã hội hóa KH&CN để tỉnh trở thành địa phương phát triển khá về KH&CN, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII đã đề ra./.









