Nét đẹp trong lễ hội Phật giáo thời Lý - Trần
Và trong đời sống thường nhật của họ không thể thiếu những lễ hội bởi đạo Phật đã truyền bá ở đất nước này cả ngàn năm rồi. Vậy thì, lễ hội được tổ chức ở hai triều đại này là những lễ hội nào, nó được tổ chức ra sao, ý nghĩa của từng lễ hội đó là gì, thời gian, không gian, người tổ chức lễ, người tham dự lễ… được thể hiện như thế nào? Tất cả sẽ được chúng tôi lần lượt giới thiệu sau đây:
Người tổ chức và người tham dự lễ hội
![]() |
Theo tư liệu lịch sử hiện có, trong những năm tháng quản trị quốc gia xã tắc, vua Thái Tổ nhà Lý đã nhiều lần tổ chức lễ hội độ tăng với quy mô lớn, hàng loạt dân chúng được xuất gia học Phật, dự vào hàng tháng chúng của Phật; thời Thái Tông, Thánh Tông cũng có rất nhiều lễ hội được nhà vua chính thức hạ lệnh tổ chức. Tháng Giêng năm 1036, mở hội khánh thành tượng Phật Đại Nguyện ở Long Trì; tháng 10 – 1040, mở hội La Hán ở Long Trì; còn vua Nhân Tông lại là một ông vua đứng ra tổ chức và tham dự nhiều lễ hội Phật giáo nhất của triều đại nhà Lý: Mùa xuân năm 1077, chỉ sau 5 năm lên ngôi, vua hạ lệnh mở hội Nhân Vương ở điện Thiên An; tháng Giêng mùa xuân năm Đại Tường Hội Khánh thứ nhất và thứ bảy (1110, 1116) mở hội đèn Quảng Chiếu (1); lễ Vu Lan cầu siêu cho thái hậu Linh Nhân cũng được vua long trọng cử hành vào tháng 7 – 1118; tháng 9 – 1118 mở hội Thiên Phật khánh thành chùa Thắng Nghiêm; tháng 2 – 1120, tháng 9 – 1126 tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở sân rồng (2); trong văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh còn ghi lại sự kiện vua tổ chức lễ Phật đản lớn ở chùa Diên Hựu; lễ hội lớn nhất được tổ chức ở thời vua Thần Tông là lễ hội khánh thành tám vạn bốn ngàn bảo tháp vào tháng 2 – 1129.
Thời nhà Trần, sử sách ít ghi chép những Phật sự lớn của các vị vua đầu, có lẽ từ thời Thái Tông đến thời Nhân Tông, cả đất nước phải 3 lần đối mặt với 3 cuộc chiến tranh lớn chống quân Nguyên, nhưng sau khi Trần Nhân Tông xuất gia, vua Anh Tông và Minh Tông kế tiếp cai quản đất nước, các lễ hội Phật giáo được tổ chức tương đối nhiều, lễ hội lớn nhất được bộ Đại Việt sử ký toàn thưghi nhận là vào năm 1303: “Mùa xuân Tháng Giêng ngày 15, Thượng hoàng ở phủ Thiên Trường, mở hội Vô Lượng Pháp ở chùa Phổ Minh, bố trí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp cho dân nghèo trong nước và giảng kinh giới thí”. Còn trong Tam tổ thực lụcghi nhận nhiều lễ hội Phật giáo được tổ chức theo yêu cầu của vua và các hoàng thân quốc thích, như lễ hội truyền giới Bồ tát tại gia, lễ hội Quán đỉnh…
Các vua là thế, quan lại dân chúng cũng thường xuyên mở lễ hội Phật giáo khắp nơi, đặc biệt là lễ hội khánh thành sau khi xây dựng hoặc tu bổ chùa tháp, tạc tượng, đúc chuông mà tư liệu văn khắc Hán Nôm của hai thời kỳ này ghi nhận. Vùng biên giới phía Nam Đại Việt (Châu Ái, tức vùng Thanh Hoá bây giờ), tướng Lý Thường Kiệt xây dựng hai ngôi chùa nổi tiếng. Báo Ân núi An Hoạch, Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn, thế là có ít nhất hai lễ hội khánh thành chùa được tổ chức tại đây. Vùng biên giới phía Bắc Đại Việt (Chiêm Hoá – Tuyên Quang) tướng Hà Hưng Tông và con cháu của ông xây dựng tu bổ chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, lễ khánh thành chùa cũng được diễn ra sau đó; Chu Tế - một quan Nội nhân hoả đầu thời nhà Trần đã dẫn dắt dân chúng cùng xây dựng lại ngôi chùa Khai Nghiêm do công chúa Nguyệt Sinh thời Lý khai lập, lễ hội khánh thành chùa được vị quan nhỏ đó và dân chúng đứng ra tổ chức, sự kiện này được Trương Hán Siêu ghi nhận khi viết bia cho chùa…
Việc vua chúa, quan lại, dân chúng, xuất gia, tại gia cùng nhau tổ chức những lễ hội Phật giáo ở thời kỳ này chứng tỏ rằng đất nước Đại Việt lúc bấy giờ rất giàu mạnh, mọi lĩnh vực kinh tế xã hội đều phát triển, dân chúng được ấm no hạnh phúc. Dân gian có câu: “Phú quý sinh lễ nghĩa”, ở góc độ nào đó, câu nói này vẫn có giá trị, đất nước phải cường thịnh, của cải phong túc, nội triều ngoại chính đều bình yên, vua quan mới có tâm để nghĩ đến việc hưởng thụ và thưởng thức văn hoá tinh thần, mới có thời gian để nhìn nhận những giá trị thiêng liêng to lớn mà văn hoá tinh thần mang lại cho đời sống của mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia; dân chúng có an cư lạc nghiệp, có đủ cơm ăn áo mặc, mới có tâm tư để nghĩ đến việc gieo phúc, tạo đức, mới có thời gian để hoà mình vào lễ hội, sống và hành trì theo những giá trị cao cả của pháp Phật.
![]() |
Sự hoà hợp đồng hành của Phật giáo với dân tộc là một minh chứng nữa được thể hiện rõ ở đây. Phương châm “Đạo pháp dân tộc” luôn được coi trọng và thực hành. Đạt Phật xưa nay không tách rời đời sống thế tục, đạo Phật luôn gắn liền với sự tồn vong hưng thịnh của mỗi dân tộc. Đạo Phật còn dành trọn tâm tư tình cảm vì dân tộc này, mang lại lợi lạc cho dân tộc này, dân tộc này mới mở rộng tấm lòng để đón nhận đạo Phật, mới nhận thấy được những giá trị thiết thực cụ thể của đạo Phật, và mới sẵn sàng đóng góp sức người sức của cho công cuộc hoằng dương chánh pháp, mới tự coi việc giữ gìn và truyền bá đạo Phật là trách nhiệm của mình.
Thời gian và không gian của lễ hội
Lễ hội Phật giáo thời Lý - Trần được tổ chức rất phong phú đa dạng, từ hình thức tổ chức đến nội dung lễ hội, đặc biệt là về thời gian và không gian tổ chức lễ hội. Nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo Việt Namkhẳng định lễ hội Phật giáo thường được tổ chức theo thời gian nông nhàn của nhân dân Việt Nam , tức là thường được tổ chức vào mùa xuân hoặc mùa thu. Nhưng như những lễ hội chúng tôi dẫn ra từ sử sách trên có thể thấy, lễ hội Phật giáo tổ chức trong rất nhiều thời điểm và ở nhiều nơi khác nhau. Ngoài những lễ hội chính được tổ chức vào thời điểm cố định như lễ hôi Phật Đản vào ngày 8 – 4 và lễ hội Vu Lan vào rằm tháng 7, lễ hội đèn Quảng Chiếu thời vua Lý Nhân Tông lại được tổ chức vào tháng Giêng, tháng 2, tháng 9 ở cửa Đại Hưng và ở điện Long Trì; lễ hội Thiên Phật được tổ chức vào tháng 9 – 1118 ở chùa Thắng Nghiêm Thánh Thọ, lễ hội La Hán được tổ chức vào tháng 10 ở điện Long Trì, lễ hội Nhân Vương được tổ chức vào mùa xuân năm Anh Vũ Chiêu Thắng 2 ở điện Thiên An (1077) và mùa hạ năm Đại Định thứ 10 ở điện Long Trì (1149), lễ hội Điểm nhãn cho hơn ngàn pho tượng Phật được tiến hành vào tháng 2 năm Khai Thái thứ nhất ở chùa Phổ Quang, lễ hội Chuyển tạng đại trai (lập đàn chay tụng đại tạng kinh) suốt 10 ngày đêm được tổ chức vào tháng 3 năm Khai Thái thứ 5 ở chùa Quỳnh Lâm theo lời thỉnh cầu của Quốc mẫu Bảo Huệ…
Không gian diễn ra lễ hội ở thời kỳ này có thể nói là khắp mọi vùng miền của Tổ quốc, không chỉ ở trong cung điện, ở những ngôi chùa tại đất Kinh kỳ, mà còn ở khắp các làng quê thôn xóm, ngay cả những nơi biên viễn xa xôi, bởi vì ở nơi đâu có chùa là ở nơi đó có lễ hội Phật giáo được tổ chức.
Có thể nói, chính thời gian và không gian diễn ra lễ hội phong phú, rộng khắp như thế đã chứng minh rằng sự tu học và hoằng truyền Phật pháp ở đất Đại Việt phát triển hết sức mạnh mẽ, thời gian và không gian của người con Phật không còn là thời gian không gian của chiếc đồng hồ hay của chiếc máy đo kinh tuyến vĩ tuyến cứng nhắc, mà trong mọi lúc, ở mọi nơi, suốt các mùa xuân hạ thu đông, từ thành thị đến thôn dã, người con Phật đều có thể sống trong pháp nhũ của Phật Đà, đều có cơ hội học Phật và ngộ đạo. Đúng với tinh thần của Thiền học Việt Nam: “Đất này Tây thiên, Tây thiên đất này”; thời kỳ chánh pháp, thời kỳ tượng pháp hay thời kỳ mạt pháp đều hoà vào trong khoảnh khắc và không gian lễ hội đó; đất nước này chính là thành Vương Xá, là tinh xá Kỳ Viên, thời kỳ Lý Trần là thời Phật còn tại thế, người dân dù mang những tên gọi khác nhau như Kinh, Mường, Êđê, Chămpa nhưng cũng chính là người của dòng Sakya, đều có sẵn Phật tính, đều được nghe pháp, và khắp nơi trên dải đất này đâu đâu cũng vang vạng tiếng pháp. Thiền Việt Nam là vậy, không dành riêng cho người xuất gia, không dành riêng cho tầng lớp thượng lưu trí thức, người tại gia với trăm công ngàn việc, người nông dân chân lấm tay bùn vẫn ung dung trong tinh thần “Đói đến thì ăn mệt ngủ liền…”.
Chú thích
1.Việt sử lược , bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Thuận Hoá.
2.Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Viện Khoa học xã hội Việt Nam , Nxb KHXH, 1998.
3. Trần Nhân Tông,Cư trần lạc đạo phú.