NCKH theo định hướng đại học đẳng cấp quốc tế - giải pháp và mô hình
Trong bài viết này, tác giả chỉ giới hạn trình bày một số ý kiến về giải pháp cụ thể để việc NCKH góp phần nâng cao vị thế của trường ĐH tiến dần đến đẳng cấp quốc tế.
Hướng tiếp cận đến các trường ĐH đẳng cấp quốc tế
Các thông số đánh giá ĐH đẳng cấp quốc tế
Ở Mỹ, hàng năm người ta xếp hạng các trường ĐH căn cứ trên 8 thông số sau đây: 1 - Tổng kinh phí dành cho nghiên cứu và triển khai (R&D); 2 - Kinh phí dành cho R&D do chính phủ liên bang trợ cấp; 3 - Số cán bộ là thành viên các viện hàn lâm quốc gia có uy tín; 4 - Số giải thưởng có uy tín mà các cán bộ của trường nhận được; 5 - Số luận án tiến sỹ (TS) bảo vệ hàng năm tại trường; 6 - Số cán bộ tu nghiệp sau TS làm việc tại trường; 7 - Nguồn vốn lâu dài; 8 - Quỹ tài trợ hàng năm.
Dưới đây xin dẫn ra các số liệu về hai trường ĐH của Mỹ: Trường ĐH danh tiếng nhất thế giới - ĐH Harvard (xếp thứ nhất) và trường ĐH trung bình - ĐH Northwestern (xếp thứ 25) trong bảng xếp hạng năm 2004.
Qua bảng có thể thấy, đối với một ĐH đẳng cấp quốc tế, các vấn đề sau đây được coi là quan trọng nhất: NCKH; đào tạo cấp cao (đào tạo TS, sau TS); thu hút và xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng cao; xây dựng thương hiệu nhà trường nhằm đạt được sự tín nhiệm của xã hội, nhờ đó mà thu hút được sự tài trợ của xã hội (từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, cá nhân).
NCKH đạt đẳng cấp quốc tế
Để đánh giá sự phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) của một quốc gia, cần phải sử dụng 2 tiêu chí đã quen thuộc trên thế giới: 1 - Số công trình khoa học công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín.Đây là tiêu chí khá quen thuộc trong giới khoa học và là đích mà các nhà khoa học Việt Nam phải phấn đấu; 2 - Số bằng sáng chế do các cơ quan khoa họccó uy tín trên thế giới cấp.Sáng chế là một giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình có tính mới, trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp. Ví dụ máy hơi nước của James Watt, công thức thuốc nổ TNT của Nobel. Vì sáng chế có khả năng áp dụng, nên có ý nghĩa thương mại, được cấp bằng sáng chế, có thể mua/bán hoặc ký các hợp đồng cấp giấy phép sử dụng và được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Về tiêu chí thứ nhất, Việt Nam đứng sau Thái Lan hơn 20 năm. Về tiêu chí thứ hai, số lượng bằng sáng chế do các cơ quan khoa học có uy tín trên thế giới cấp cho các nhà khoa học Việt Nam còn quá ít nên không biết so sánh với ai. Các trường ĐH Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng chung này của đất nước. Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho thực trạng đó, nhưng một nguyên nhân quan trọng nhất đó chính là do triết lý giáo dục của Việt Nam. Một thời gian dài nền giáo dục nước ta quá chú trọng đào tạo học sinh theo kiểu “gà chọi”, chạy theo bệnh thành tích nhằm luyện cho học sinh kỹ năng giải các dạng bài mẫu để đi thi quốc gia, quốc tế. Những học sinh đạt giải quốc tế tiếp tục toả sáng như Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu… không nhiều, số đông còn lại gần như mất “năng lượng”, sau này không còn khả năng thăng hoa để công bố kết quả NCKH trên đấu trường quốc tế. Thế hệ trẻ ngày nay tuy có trình độ ngoại ngữ, tin học tốt hơn nhưng trong những năm tháng học phổ thông và đại học - thời kỳ quan trọng hình thành tính cách và khả năng sáng tạo của con người, chúng ta chưa thực sự rèn luyện cho họ phương pháp học tích cực, học sinh chưa biết cách biến các kiến thức thành tri thức một cách thực thụ. Theo một kết quả nghiên cứu gần đây của PGS Nguyễn Công Khanh (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) thì có đến 80% số giảng viên đại học hiện đang lên lớp theo phương pháp truyền thống thụ động “thầy đọc trò chép”, nếu có sử dụng máy tính thì theo kiểu “thầy chiếu trò ghi”. Như vậy, nếu xét vấn đề ở tầm vĩ mô, để tạo ra tính năng động, sáng tạo của người làm công tác khoa học, nhiệm vụ không chỉ là của các nhà quản lý giáo dục, quản lý khoa học mà là của toàn xã hội.
Nếu gọi số lượng công trình đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế là đầu ra thì đầu vào là tập hợp của 3 thông số chính sau: Cơ chế chính sách trong quản lý khoa học; cơ sở trang thiết bị, phòng thực hành (LAB); đội ngũ cán bộ KH&CN.
Trong phạm vi một trường ĐH thì cơ chế chính sách trong quản lý khoa học do lãnh đạo của trường quyết định (tất nhiên nó còn chịu sự chi phối của các cơ chế, chính sách tầm quốc gia). Một cơ chế quản lý thông thoáng, thay đổi để phù hợp với cơ chế thị trường, chính sách khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ KH&CN như ưu đãi về lương... phù hợp sẽ là động lực thúc đẩy để tạo ra các công trình khoa học tầm cỡ quốc tế.
Trong xu thế hội nhập, các trường ĐH khối khoa học tự nhiên và kỹ thuật luôn phải cập nhật những thành tựu KH&CN mới nhất của thế giới, các công trình NCKH tầm cỡ chỉ có thể thực hiện trong các phòng thí nghiệm hiện đại tương xứng.
Về đội ngũ cán bộ KH&CN, con người là yếu tố quyết định các hoạt động xã hội nói chung, hoạt động KH&CN nói riêng. Đây là một thách thức lớn trong quá trình hội nhập quốc tế và cũng là một nhiệm vụ nặng nề đặt lên vai các trường ĐH. Các công trình NCKH tầm cỡ quốc tế, các đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học tên tuổi, các ứng dụng nổi bật, chất lượng sinh viên chuyên ngành, trình độ ngoại ngữ... là những đòi hỏi cấp thiết trong quá trình xây dựng ĐH đẳng cấp quốc tế.
Nhận thức mới về vai trò của NCKH trong các trường ĐH
Trong thời gian qua, số lượng các trường ĐH Việt Nam tăng lên một cách “chóng mặt”. Mặc dù nhiều trường ĐH có tên gọi khác nhau nhưng đều có các khoa “thời thượng” như: Công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, quản trị kinh doanh, kinh tế đối ngoại... Do vậy, số lượng sinh viên các chuyên ngành này ở nước ta tăng đột biến và tạo nên áp lực cạnh tranh mới. Trước sức ép đó, để tồn tại và vững bước đi lên, các trường ĐH phải nâng cao chất lượng đào tạo và xây dựng uy tín, thương hiệu cho mình. Muốn có chất lượng đào tạo tốt phải có những giảng viên giỏi thể hiện qua các công trình khoa học được quốc tế công nhận. Như vậy, NCKH ở ĐH trong giai đoạn hội nhập không chỉ có ý nghĩa quốc gia, ý nghĩa thực tiễn mà thông qua đó còn để nâng cao vị thế của từng trường. Các trường ĐH danh tiếng trên thế giới chỉ có thể nhận biết các trường ĐH Việt Nam qua các công trình khoa học của giảng viên trường đó trên các tạp chí uy tín của thế giới hay qua các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế. Như vậy, hợp tác quốc tế giữa các trường ĐH hiện nay đồng nghĩa với hợp tác khoa học.
Thay đổi quan điểm về đề tài khoa học
NCKH nhằm mục đích: Một là,nghiên cứu cái cụ thể gắn với định hướng phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của ngành, trường ĐH. Hai là,đề tài nghiên cứu phải mới, phải mang tính học thuật đạt đẳng cấp quốc tế. Đề tài NCKH phải tạo ra cái mới ở mức độ khác nhau. Nếu kết quả nghiên cứu mà giải quyết cụ thể một công việc, sáng chế mang lại lợi ích cho xã hội, cho ngành thì có thể chưa cần đến bài báo khoa học cũng sẽ được đánh giá cao về hàm lượng khoa học. Còn nếu kết quả nghiên cứu chưa mang lại hiệu quả ứng dụng cụ thể gì thì nhất thiết phải có bài báo khoa học cấp quốc tế, quốc gia, tạp chí chuyên san (tính điểm công trình) mới được đánh giá đó là đề tài khoa học thực sự.
Báo cáo kết quả NCKH được ví như là một cuộc thi bơi được tổ chức ở các nơi khác nhau: ở hồ, sông lớn và trên biển. Chất lượng các đề tài khoa học được thể hiện qua báo cáo chuyên đề hay hội nghị khoa học cấp khoa được ví như thi bơi ở ao làng; cấp trường giống như thi bơi ở hồ; cấp toàn quốc, hay bài báo đăng trên các tạp chí quốc gia giống như thi bơi ở sông. Báo cáo tại các hội nghị quốc tế, hay bài báo đăng trên các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới giống như thi bơi ở biển. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, được ví như cả nước đang bước ra biển lớn. Mỗi giảng viên của các trường ĐH phải có kế hoạch cho bản thân để bước từ ao làng ra hồ, rồi ra sông và vươn ra biển lớn nhằm khẳng định năng lực của bản thân trong xu thế hội nhập.
Thay đổi quan điểm về đầu tư kinh phí cho NCKH
Đầu tư cho NCKH phải tạo ra kết quả nghiên cứu mới ở mức độ khác nhau. Không nên đánh giá thành tích NCKH của giảng viên dựa trên số lượng đề tài đã được nghiệm thu mà đánh giá qua các sản phẩm nghiên cứu cụ thể. Đây là cách “Nói không với bệnh thành tích trong khoa học”. Làm nhiều đề tài kém chất lượng là đang làm nghèo đất nước. Không nên phân biệt đề tài cấp này hay cấp khác mà chủ yếu phân biệt đẳng cấp của từng công trình khoa học xem có tiếp cận với đẳng cấp quốc tế hay có ứng dụng cụ thể gì không.
Đầu tư cho NCKH phải đạt được một trong hai mục đích: Tạo ra các sản phẩm khoa học bao gồm các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí quốc tế, quốc gia hoặc các sáng chế, các ứng dụng mang lại lợi ích cho xã hội; Tạo điều kiện cho mọi giảng viên được tham gia NCKH qua các báo cáo chuyên đề ở cấp “tập bơi quanh ao làng” trước khi vươn ra biển lớn.
Đề xuất mô hình hoạt động NCKH
Đổi mới công tác quản lý khoa học phù hợp tốc độ phát triển của khoa học thế giới
Triết học Mác nói rằng “ Lượng đổi thì chất đổi. Lượng thay đổi một cách tuần tự còn chất thì thay đổi một cách nhảy vọt”.Phạm trù về mối tương quan giữa lượng và chất này hoàn toàn đúng trong các hoạt động khoa học. Ví dụ nhờ các nghiên cứu khoa học, trong vòng vài tháng, công nghệ phần cứng của máy tính lại xuất hiện một công nghệ mới, trong vòng vài năm thì Microsoft lại sản xuất ra một phiên bản OS mới với nhiều tính năng mới..., khoảng cách giữa NCKH và triển khai ứng dụng ngày càng được rút ngắn. Trong tình hình đó, cách quản lý khoa học không thể giữ nguyên như khoảng nửa thế kỷ trước đây mà cần có bước đột phá mới về chất nhằm đổi mới tư duy quản lý khoa học, tiếp cận với cách quản lý khoa học quốc tế.
Cần sớm xây dựng và thực thi các tiêu chí đánh giá theo chuẩn mực quốc tế, lựa chọn ra được những hội đồng khoa học có đủ khả năng và thẩm quyền đánh giá chính xác các kết quả nghiên cứu. Chính phủ cần có Nghị định về việc đăng ký chuyên gia KH&CN, trong đó có điều khoản quy định mọi cán bộ khoa học nếu muốn nhận hay tham gia đề tài nghiên cứu phải đăng ký chuyên gia với cơ quan quản lý. Thành lập các hội đồng xét duyệt, nghiệm thu các đề tài khoa học, là những nhà khoa học thực thụ đang làm khoa học, thường xuyên có công bố quốc tế có chất lượng trong những năm gần đây, hạn chế tối đa những người chỉ đơn thuần làm công tác quản lý. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng của các “hội đồng xét duyệt” có thể mời các phản biện nước ngoài và tiến tới là mời cả các chuyên gia nước ngoài tham gia hội đồng.
Song song với việc cải tổ quá trình xét duyệt, chọn ra được những đề tài được sự quan tâm cao của cộng đồng khoa học, được thực hiện bởi những nhà khoa học thực sự có khả năng, thì Nhà nước phải có chiến lược đầu tư kinh phí hợp lý. Kinh phí cho một đề tài khoa học phải căn cứ vào kết quả thực sự, đối với khoa học cơ bản là các công bố quốc tế hoặc ít ra cũng là công bố trên các tạp chí của quốc gia, không thể là các công bố ở các tạp chí của trường hoặc trong các kỷ yếu của các hội nghị tổ chức trong nước... Đề tài nào được cấp nhiều kinh phí hơn, nhất thiết phải có yêu cầu nghiệm thu cao hơn. Nếu không đạt yêu cầu cần thiết phải hoàn lại kinh phí (một phần hoặc toàn bộ, tùy mức độ). Khuyến khích đầu tư kinh phí cho những đề tài khoa học thuộc những lĩnh vực được nhiều người trên thế giới quan tâm.
Lựa chọn hướng nghiên cứu
Đây là công việc của cán bộ đầu đàn thực hiện dựa trên các nguyên tắc: Phải là hướng nghiên cứu mũi nhọn đang được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm, có hàm lượng khoa học cao và có tiềm năng ứng dụng lớn, đáp ứng nhu cầu sử dụng trong lĩnh vực chuyên môn và phù hợp với điều kiện trang thiết bị, cán bộ nghiên cứu của trường. Các đề tài nghiên cứu phải đặt quyết tâm phấn đấu nâng cao chất lượng các công trình để được đăng tải trên các tạp chí quốc tế.
Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế
Khuyến khích các giảng viên tham gia các hoạt động khoa học với các đơn vị trong và ngoài nước như trình bày báo cáo khoa học tại các hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế. Bên cạnh đó cần tăng cường cử giảng viên (kể cả học viên cao học, nghiên cứu sinh, cộng tác viên) đi dự các hội nghị quốc gia, quốc tế, trao đổi hợp tác ngắn ngày hoặc dài hạn ở nước ngoài. Hoặc mời các nhà khoa học nước ngoài trao đổi hợp tác chuyên môn và giảng bài tại trường để có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn và ngoại ngữ.
Các hoạt động giao lưu khoa học không những giúp cho giảng viên học tập và cập nhật được phương hướng và phong cách NCKH tại các nước tiên tiến mà còn có dịp được “cọ sát” và khẳng định thế đứng của mình. Cần nhấn mạnh rằng không thể đạt trình độ cao trong NCKH nếu không hội nhập quốc tế. Phần lớn đề tài và công trình có giá trị đều bắt nguồn từ việc đi dự các hội nghị quốc tế và hợp tác quốc tế.
Kết luận
Một trường ĐH đẳng cấp quốc tế thì sản phẩm đầu ra phải là những công trình NCKH ngang tầm quốc tế do chính đội ngũ giảng viên cùng với sinh viên của trường trong quá trình nghiên cứu, học tập tạo ra và trường đó phải có nguồn nhân lực chất lượng cao được đánh giá theo chuẩn mực quốc tế. Hai mục tiêu này gắn kết chặt chẽ với nhau nên con đường xây dựng một ĐH đại học đẳng cấp quốc tế phải là: Kết hợp đào tạo tiên tiến với xây dựng và phát triển NCKH tiên tiến. NCKH cũng chính là việc nâng cao chất lượng đào tạo, là vấn đề sống còn của trường ĐH tiên tiến tiếp cận ĐH đẳng cấp quốc tế. Sự tham gia vào các đề tài nghiên cứu của giảng viên, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh sẽ tạo ra môi trường đào tạo lý tưởng giúp nghiên cứu những vấn đề khoa học hiện đại, được rèn luyện phương pháp NCKH (từ phân tích, mổ xẻ, tìm hiểu sâu sắc bản chất và tính logic của các nội dung cho đến cách thực hành và vận dụng vào thực tiễn).
_________________
Tài liệu tham khảo
1. Kỷ yếu Hội thảo Hội nhập quốc tế về KH&CN, Bộ KH&CN (2005).
2. Những quan sát về giáo dục ĐH trong các ngành Công nghệ thông tin, Kỹ thuật điện - Điện tử - Viễn thông và Vật lý tại một số trường ĐH Việt Nam, 8.2006.Báo cáo của các Đoàn khảo sát thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ đệ trình cho Quỹ giáo dục Việt Nam.
3. Đặng Mộng Lân, KH&CN Việt Nam đang ở đâu?Tạp chí Vật lý ngày nay, Tập XVII - Số 6 (77) - Tháng 12.2006, trang 18.








