Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 13/04/2007 21:07 (GMT+7)

Mười ngôn ngữ và một nhà khoa học

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, Phan Ngọc học chữ Hán chỉ để khỏi phật ý người thân, còn hoạn lộ của ông sẽ thênh thang nếu ông đi theo con đường được gia đình vạch sẵn: vào trường Luật. Thế nhưng, cậu tú Phan Ngọc lại nuôi một chí hướng khác, mọi sự đảo lộn khi ông vào trường Y và sau đó nhập ngũ làm lính ở sư đoàn 304, rồi về làm việc ở Bộ Văn Hoá. Đại học Tổng hợp Hà Nội và hiện nay là Viện Đông Nam Á – Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn.

Dường như có cái gì đó “bẩm sinh năng khiếu” trong việc học tiếng nước ngoài ở ông, điều này ông giải thích một cách giản dị: “Tôi đã tìm ra cái mẹo của cách học”. Không giống như nhiều người, trong chúng ta hôm nay lao vào học ngoại ngữ như đi tìm một sinh kế. GS. Phan Ngọc đã vượt qua giới hạn dùng ngôn ngữ như một công cụ môi giới văn hoá mà ông dùng ngôn ngữ để trực tiếp khảo sát văn hoá các dân tộc, các khoa học xã hội mũi nhọn đang phát triển trên thế giới – theo cả chiều rộng và chiều sâu. Học hàm “giáo sư ngôn ngữ học” chưa phản ánh đầy đủ năng lực thực tế của ông. Đọc các công trình, nghe các bài giảng và qua tiếp xúc có thể nhận ra ông còn là nhà dân tộc học, nhà triết học, nhà mỹ học, nhà Hán học, nhà nghiên cứu văn học... Những lĩnh vực ông nghiên cứu không dừng lại ở các hiểu biết thông thường mà theo phương châm “cáh vật, trí tri” (biết đến tận cùng sự vật, biết đến tận cùng sự biết). Đám học trò chúng tôi thường nói sau lưng ông: đó là “ông đồ xứ Nghệ đời mới”. Cốt cách ông đồ và trí thức hiện đại như là hiện thân của sự nghiệp khoa học ông đã và đang theo đuổi để chứng minh rằng: con người Việt Nam với bản sắc văn hoá của mình hoàn toàn có đủ khả năng đuổi kịp và đứng vững trong nền văn minh công nghiệp, văn minh tin học.

Mục đích của đời tôi là chỉ tìm phương pháp làm việc có lợi ích cho nhân dân nước tôi” – Phan Ngọc viết như vậy và quả thật ông đã dành tất cả tâm sức cho mục đích. Từ những năm 1960, chiến tranh khốc liệt, không mấy ai biết trên căn gác xép chật chội ở số nhà 57, phố Bùi Thị Xuân, Hà Nội kia lại có vị học giả đang cặm cụi, nghiền ngẫm suy tư để trả lời câu hỏi: sau chiến tranh, nước Việt Nam phải phát triển văn hoá như thế nào trong một thế giới hiện đại? 30 năm sau, câu trả lời ông tìm ra từ ngày ấy mới được công bố, vì theo ông, công cuộc đổi mới khởi đầu từ Đại hội Đảng VI cho ông những điều kiện cần thiết. Điều thú vị là trong các công trình này, ông sử dụng thao tác luận(operationalist) – phương pháp nghiên cứu ít người biết và sử dụng ở Việt Nam ) - để nghiên cứu văn hoá và kiên trì với công cụ đó một cách nhất quán. Ông quy hiện tượng ra thành một chùm quan hệ rồi tìm trong đó quan hệ nào có thể tác động để đổi mới cuộc sống.

Nghiên cứu nho giáo, ông đi tìm cái bất biến trong cái khả biến, chỉ ra rằng chỉ có Khổng Tử và Nho giáo chân truyền mới là Nho giáo đích thực, còn Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho... là cái khả biến nảy sinh từ cái bất biến Khổng Tử. Ông chứng minh sự tiếp thu văn hoá Hán của Việt Nam sau thế kỷ X là một kiểu lựa chọn đúng vì có như thế người Việt mới có thể xây dựng được sự thống nhất chính trị - văn hoá đủ sức đương đầu với phong kiến phương Bắc. Ông luận chứng bản sắc văn hoá dân tộc là một kiểu lựa chọn từ quan hệ qua lại giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại... Để chứng minh Nho giáo Việt Nam mang nhiều đặc điểm dị biệt với Nho giáo Trung Hoa, ông đưa ra khái niệm “độ khúc xạ trong giao lưu văn hoá”...

Biên độ các vấn đề nghiên cứu của GS. Phan Ngọc rất rộng: Bằng phong cách học, ông nghiên cứu Truyện Kiềuđể tìm ra cống hiến nghệ thuật thiên tài của Nguyễn Du “trước đó không ai làm được và sau đó khó có ai làm được”. Ông quan tâm tới cách chữa lỗi chính tả cho học sinh. Ông nghiên cứu sự tiếp xúc ngôn ngữ Đông Nam Á. Ông nghiên cứu Đỗ Phủ - nhà thơ dân đen. Ông bàn chuyện dịch Đạo đức kinh, ông quan tâm tới Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, tới văn hoá cố đô Huế. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một say mê của ông, ông nghiên cứu Hồ Chí Minh một cách trân trọng, sâu sắc, có cách lý giải riêng.

Nhìn vào danh mục những vấn đề nghiên cứu hẳn sẽ có người nghi ngờ chất lượng của chúng nếu không tìm hiểu cơ chế làm việc của ông. GS. Phan Ngọc tự đặt ra yêu cầu bản thân phải đạt tới một sự thức nhận (prise de con scince) về đối tượng và phương pháp của mình. Ông cho rằng: “Nếu không thực hiện được sự thức nhận ấy – dù người nghiên cứu có tài giỏi, uyên bác đến đâu, anh ta có làm việc nghiêm túc, công phu đến đâu – công trình của anh ta vẫn cứ thiếu chính xác”. Từ sự thức nhận, ông nghiên cứu văn hoá – lĩnh vực cực kỳ đa dạng với phương thức tiếp cận đa ngành và đòi hỏi mình phải thông thạo những lĩnh vực khác nhau của văn hoá. Những tri thức địa – văn hoá, lịch sử học, ngôn ngữ học, khảo cổ học, nhân chủng học... được ông vận dụng một cách hệ thống, phù hợp và có hiệu quả. Cả tính sáng tạo đầy bản lĩnh của ông được bảo đảm bằng một trí tuệ uyên bác, một phương pháp làm việc nghiêm túc, lập luận chặt chẽ, kết hợp uyển chuyển, linh hoạt giữa lý luận và thực tiễn, giữa lý trí và trái tim mỹ cảm, giữa quan điểm Mác-xít và phẩm cách một nhà Nho...

Một lần tới xin thỉnh giáo một vấn đề học thuật, tôi tình cờ gặp tại nhà ông vị đại diện của Đại học Hồng Kông đến mời ông thuyết giảng. Tuổi cao, sức không khoẻ, ông có ý ngần ngại. Vị đại diện tha thiết nói: “Trung Hoa hiện tại không mấy ai thuộc tới 1.000 bài thơ Đường nên sự có mặt của ngài là sự hữu ích với chúng tôi”. Ông đành nhận lời... Sau đó ít ngày, ông đưa tôi xem tập bài giảng soạn bằng tiếng Anh, nét chữ chân phương, sạch sẽ, văn phong trong sáng và ông bảo: Mình chuẩn bị nghiêm túc để người ta đừng hiểu lầm. Chuyến đi Hồng Kông của ông đầu năm 1994 để lại cho ông nhiều kỷ niệm. Qua bà Kim Tuyến (người thư ký, người vợ cần cù, tận tuỵ và khó tính của ông) tôi mới biết vài chuyện. Một tiến sĩ người Mỹ rất rụt rè trong tiếp xúc, rồi nói thật rằng, ông ngại vì người Mỹ vốn là kẻ thù của Việt Nam . GS. Phan Ngọc trả lời: “Chỉ những kẻ lừa dối nhân dân Mỹ, đem quân xâm lược Việt Nam mới là kẻ thù; còn chúng ta nhân dân Mỹ và các nhà khoa học là bè bạn”. Viện sĩ Nhiễu Tông Di - vị trưởng lão đáng kính, ở tuổi trên 80 đã “hạ sơn” để cùng Phan Ngọc xuống một quán trà nổi tiếng ở Hồng Kông đàm đạo vì đã lâu không có tri kỷ.

Từ Hồng Kông, Singapore trở về Hà Nội, GS. Phan Ngọc lại say sưa chuẩn bị xuất bản cuốn Từ điển Anh - Việthơn 100.000 từ và sau đó soạn tiếp Từ điển Việt – Anh với số từ tương đương. Ông làm việc không nghỉ và hàng tuần vẫn dành 6 giờ học tin học, để có thể sử dụng chiếc máy vi tính ông mua sắm bằng thù lao giảng bài. Ở tuổi trên 70. “Ông đồ xứ Nghị đời mới” vẫn đầy hoài bão và nhiệt huyết.

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.