Một vài vấn đề về hoạt động xử lý rác thải
Lúc đó, hình ảnh có thể thấy là rác được thải bừa bãi, không kể trên cạn hay dưới sông, trong nhà hay nơi công cộng. Khái niệm “xử lý rác thải” chỉ tựu trung trong việc dọn sạch rác trong nhà và “đổ hết xuống sông”, nơi không có sông thì bỏ đại ra đường; “tiến bộ” hơn một chút là gom rác để đốt hay đào hố chôn lấp. Vì vậy, rác không được phân loại. Thực trạng trên đã tạo nên tình trạng mất vệ sinh trong môi trường sống; các loại rác có chất độc hại không được xử lý triệt để và khó phân hủy không được xử lý đúng cách là nguồn gây ô nhiễm gây hại đến sức khoẻ, ô nhiễm môi trường đất và nguồn nước…
Có thể đánh gía hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên, đó là (1) nhận thức của người dân đối với việc xử lý rác để bảo vệ môi trường sống của cộng đồng chưa cao và (2) cơ quan quản lý chưa có các giải pháp để giải quyết một cách đồng bộ và dứt điểm tình trạng này.
Để giải quyết vấn đề “xử lý rác thải” cần bắt đầu từ việc khắc phục hai nguyên nhân nêu trên.
Đối với nguyên nhân về nhận thức của người dân, ngoài việc tuyên truyền về tác hại của việc xử lý rác không đúng cách đến sức khỏe, môi trường sống còn cần phải tuyên truyền để từng cá thể biết quý trọng bản thân, từ đó quan tâm đến sức khỏe của mình, của thành viên gia đình và tiến tới của cả cộng đồng. Nội dung tuyên truyền phải cụ thể, sống động, thiết thực đến từng cá nhân nên rất cần thiết phải phân khúc đối tượng để hình thức và nội dung tuyên truyền phù hợp. Điển hình là việc tuyên truyền phân loại rác tại nguồn, cần có hình ảnh cụ thể là rác nào bỏ chung vào thùng nào (bóng đèn, vỏ chai thuốc xịt côn trùng…rau, cá thịt…), loại rác nào không được bỏ vào thùng (phân…) chứ chỉ nói chung chung là rác hữu cơ hay vô cơ thì làm sao tất cả mọi người đều biết mà thực hiện. Mặt khác, để tuyên truyền nội dung này, có thể tập trung vào đối tượng là phụ nữ và trẻ em vì đây là hai đối tượng có ảnh hưởng nhiều nhất trong sinh hoạt mỗi gia đình.
Tuy nhiên, khi nhận thức của người dân được nâng lên cơ quan quản lý chưa có các giải pháp để giải quyết một cách đồng bộ thì chắc chắn không mang lại hiệu quả. Vì nếu không xả rác bừa bãi hoặc thực hiện phân loại rác tại nguồn nghiêm túc mà không có nơi xử lý rác hoặc chất thải khác đúng cách, không có hệ thống xử lý rác và cơ sở vật chất phù hợp, không có người vận hành và không duy trì hệ thống xử lý rác thì mục tiêu “xử lý rác” vẫn chưa đạt. Vấn đề này đã được thấy qua thực tế mô hình phân loại rác tại nguồn của một số địa phương khi người dân phân loại rác nhưng xe lấy rác thì thiết kế theo kiểu “không phân loại”.
Vì thế, các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ và phân định rõ trách nhiệm từ người xả rác đến cơ quan quản lý. Cần thiết phải có quy hoạch xử lý chất thải, bố trí kinh phí để trang bị và vận hành đồng bộ hệ thống xử lý rác, có kế hoạch duy trì nhân lực (tập huấn, tiền công, chế độ chính sách…) để đảm bảo việc duy trì hệ thống vận hành và vận hành đạt hiệu quả. Ngoài ra, cần thực hiện nghiêm chế tài xử phạt với các hành vi xả rác không đúng quy định bằng nhiều hình thức (phạt trực tiếp, thông báo xử phạt kèm theo bằng chứng vi phạm, mức xử phạt lũy tiến theo số lần vi phạm, hạn chế một số quyền lợi theo số lần vi phạm…).
Để thí điểm tìm giải pháp xử lý rác thải phù hợp với thực tế, nhất là tại các vùng nông thôn, năm 2009, Sở Tài nguyên và Môi trường cùng Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh An Giang phối hợp với địa phương thực hiện thí điểm mô hình xử lý rác nông thôn tại bốn điểm trong tỉnh. Đó là khu phân loại rác và xử lý rác thải sinh hoạt xã Hòa Bình (huyện Chợ Mới) với công suất 10m 3/ngày, xử lý rác cho hai xã Hòa Bình và Hòa An; tại xã Vĩnh Lộc (huyện An Phú) với công suất 5m 3/ngày, xử lý rác cho xã Vĩnh Lộc; tại xã Bình Thạnh (huyện Châu Thành) với công suất 5m 3/ngày, xử lý rác cho xã Bình Thạnh; tại xã Vĩnh Phú (huyện Thoại Sơn) với công suất 5m 3/ngày xử lý rác cho xã Vĩnh Phú và một phần xã Vĩnh Trạch. Các khu xử lý rác cơ bản đáp ứng được yêu cầu giải quyết việc xử lý lượng rác thải tại các địa phương nhưng vẫn còn hạn chế là việc phân loại rác tại nguồn chưa triệt để, một số thiết bị trang bị chưa phù hợp và địa phương gặp khó khăn về kinh phí…
Tuy có hạn chế, nhưng mô hình trên đã cho thấy sự phù hợp đối với vùng nông thôn về điều kiện sinh hoạt, phân bố dân cư, cơ sở hạ tầng… và đạt được mục tiêu xử lý rác tập trung nên hạn chế phần nào mức độ ảnh hưởng của rác độc hại đến sức khỏe của con người và môi trường sống.
Bước đầu, tỉnh An Giang cũng đã công bố quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Trong đó, sẽ có 04 trạm trung chuyển cấp vùng, 06 khu xử lý vùng tỉnh hoặc liên huyện, 04 khu xử lý cấp vùng huyện hoặc liên đô thị và 09 khu xử lý quy mô nhỏ cấp xã được hình thành. Ngoài ra, mỗi khu công nghiệp hoặc cụm công nghiệp sẽ có ít nhất 01 trạm trung chuyển sơ cấp.
Tính đồng bộ trong hoạt động xử lý rác thải kết hợp với giải pháp tuyên truyền phù hợp là yêu cầu quan trọng để đạt được mục tiêu về xử lý rác thải trên toàn tỉnh nói chung và đối với vùng nông thôn nói riêng./.








