Một số ý kiến về sửa đổi, bổ sung Điều lệ Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Tại Quyết định 121/HĐBT ngày 29 - 8 - 1983 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phép Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam chính thức thành lập và hoạt độngcó đoạn ghi: “Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam được chính thức hoạt động theo Điều lệ đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất thông qua ngày 26 tháng 3 năm 1983”.
Tiếp theo đó, các đại hội lần II, III, IV và V đều đã kiểm điểm quá trình thực hiện Điều lệ do đại hội trước đó thông qua, tiến hành sửa đổi, bổ sung những nội dung cần thiết và thông qua Điều lệ sửa đổi, bổ sung. Các điều lệ sửa đổi, bổ sung đã được thông qua đó lại được Chính phủ (hoặc cơ quan được Chính phủ uỷ quyền) xem xét, phê chuẩn và được áp dụng cho nhiệm kỳ tương ứng.
Điều lệ hiện hành của Liên hiệp hội Việt Nam được soạn thảo công phu, có nhiều thay đổi so với bản Điều lệ trước đó, do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V nhất trí thông qua ngày 28 - 12 - 2004 và được đích thân Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải phê chuẩn tại Quyết định 650/QĐ-TTg ngày 24 - 4 - 2006. Điều 3 của văn bản quan trọng này khẳng định: “Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này”.
Trải qua 5 năm của nhiệm kỳ V (2004 - 2009), tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi. Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 6 - 8 - 2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đặt ra những vấn đề mới vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướcvà sẽ tác động mạnh mẽ đến tổ chức và hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam. Bản thân Liên hiệp hội Việt Nam cũng đã phát triển thêm một bước, trong đó Điều lệ hiện hành đã phát huy tác dụng tích cực, nhưng đồng thời cũng bộc lộ một số điều bất cập.
Như thường lệ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Liên hiệp hội Việt Nam , dự kiến tiến hành vào tháng 3/2010, cũng sẽ xem xét sửa đổi, bổ sung Điều lệ hiện hành và thông qua Điều lệ sửa đổi, bổ sung áp dụng cho nhiệm kỳ tới (2009 - 2014). Những ý kiến trình bày dưới đây được sắp xếp thứ tự theo các chương của Điều lệ hiện hành và những mong góp phần vào công việc đầy trách nhiệm đó.
Trong phân Mở đầucụm từ “giữ nước và dựng nước” nên được sắp xếp lại thành “ dựng nước và giữ nước”. Như sẽ trình bày chi tiết hơn ở phần sau, khái niệm “hội khoa học và kỹ thuật ngành trung ương” nên được sửa thành “hội khoa học và kỹ thuật ngành toàn quốc”.
Chương I Tôn chỉ, mục đích và những quy định chungcần tiếp tục khẳng định tính chất chính trị - xã hộicủa Liên hiệp hội Việt nam, như đã được ghi trong Chỉ thị 45-CT/TW và nhiều văn bản khác trước và sau đó của Đảng và Chính phủ. Việc khẳng định tính chất hệ thốngcủa Liên hiệp hội Việt Nam từ trung ương đến địa phương thể hiện tinh thần Chỉ thị 35-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VI). Đó cũng là một trong những thuộc tính của một tổ chức chính trị - xã hội.
Trong Chương II Chức năng và nhiệm vụcần thể hiện rõ nét hơn nữa trách nhiệm của Liên hiệp hội Việt Nam đối với các hội thành viên, ví dụ như thúc đẩy việc củng cố và thành lập các hội khoa học và công nghệ trong cả nước và ở từng địa phương; tổ chức các hoạt động khoa học – công nghệ chung trong cả nước, trong từng vùng miền hoặc trên từng lĩnh vực chuyên môn; điều hoà và phối hợp hoạt động của các hội thành viên; tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ các hội thành viên trong hoạt động khoa học và công nghệ và hoạt động hội.
Những nội dung trên đây đã có thể tìm thấy trong một số điều của Điều lệ hiện hành. Sự thể hiện tập trung những nội dung đó ở khoản 1 của Điều 6 có thể cho thấy Liên hiệp hội Việt Nam ý thức đầy đủ hơn và thể chế hoá tường minh hơn trách nhiệm của mình đối với các hội thành viên, minh chứng cho sự đối xứng trong quan hệ và tăng cường sự gắn bó giữa hai bên.
Chương III Hội thành viênlần đầu tiên được đưa vào Điều lệ Liên hiệp hội Việt Nam . Tại đây đã có sự xác định các loại hội thành viên của Liên hiệp hội Việt Nam . Bên cạnh mối quan hệ giữa Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên, Điều lệ cũng quy định các quyền và nghĩa vụ của các hội thành viên. Đó là những điểm mới, đáng được ghi nhận.
Khái niệm hội ngành trung ươngđã thịnh hành trong thời gian qua cũng được xem xét lại. Nó tạo cho người đọc ấn tượng là các hội đó (chỉ) hoạt động ở cấp trung ương, ít (hoặc không) liên hệ với cấp cơ sở.
Đành rằng hiện nay do những nguyên nhân khác nhau, trên thực tế một số hội khoa học – công nghệ, thành viên của Liên hiệp hội Việt Nam , mới chỉ triển khai hoạt động ở cấp trung ương. Nhưng bên cạnh đó, rất nhiều hội đã có các tỉnh, thành hội. Hội Đông y Việt Nam được biết đến ở nhiều nơi trong cả nước. Cá biệt, Hội những người làm vườn Việt Nam với trên một triệu hội viên hoạt động tại cả các quận, huyện, phường, xã. Chính nhờ vậy mà gần 60 liên hiệp hội địa phương có đủ số lượng cần thiết các hội thành viên của mình. Ngay cả các hội hiện mới hoạt động ở cấp trung ương thì theo Điều 7, họ cũng được xếp vào loại các hội “hoạt động trên phạm vi cả nước”. Trong tương lai, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hoàn toàn có khả năng các hội đó đưa tổ chức và hoạt động của mình về cơ sở? Đó không chỉ là một xu thế khách quan mà còn là một yêu cầu đối với các hội khoa học - công nghệ.
Trong tình hình đó có thể xem xét khái niệm hội ngành toàn quốc.Khái niệm toàn quốcbao hàm trong nó các khái niệm tỉnh, thành phốvà các tỉnh, thành phố là những bộ phận,những hợp phầncủa toàn quốc. Khái niệm hội ngành toàn quốc cho thấy hội đó hoạt động trên phạm vi cả nước (không chỉ riêng ở cấp trung ương) và có các tổ chức tại các tỉnh, thành phố. Khái niệm này phù hợp hơn với đa số các hội khoa học - công nghệ, lại cũng đáp ứng tốt hơn xu thế phát triển của các hội này. Vả lại khái niệm “toàn quốc” cũng không xa lạ gì với Liên hiệp hội Việt Nam, chẳng hạn như trong cụm từ Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ VI Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
Mở đầu chương này có ba nội dung: Cơ cấu thành viên của Liên hiệp hội Việt Nam ; Các hội ngành toàn quốc; Các liên hiệp hội địa phương. Cách trình bày tại Điều 7 và Điều 8 của Điều lệ hiện hành thể hiện không đủ rõ ràng những nét đặc thù của hai loại hội thành viên. Nên chăng có sự tái cấu trúc những nội dung kể trên thành ba điều:
Điều 7 với nội dung là đoạn đầu của Điều 7 hiện hành.
Điều 8 với nội dung là đoạn thứ hai của Điều 7.
Điều 9 với nội dung là đoạn thứ ba của Điều 7 hiện hành và mối quan hệ của các liên hiệp hội địa phương với Liên hiệp hội Việt Nam . Trong điều này cần nêu bật lên tính chất chính trị - xã hội của các liên hiệp hội địa phương như đã được thể hiện tại Nghị quyết Trung ương Hai (khoá VIII) và trong lời phát biểu của Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) Phan Diễn chỉ đạo Đại hội lần thứ V Liên hiệp hội Việt Nam.
Về chương IV: Cơ quan lãnh đạo Liên hiệp hội Việt Nam có thể có một số vấn đề sau đây:
1. Tại bản tin K.C.P số 091, tháng 7 - 2009, có bài “Ban Thư ký - một thực thể cần thiết”. Nêu ý kiến đề xuất về việc lập lại Ban Thư ký được chấp thuận thì nên có 1 - 2 điều quy định về thực thể này.
2. Tại Khoản 1 Điều 19 Điều lệ hiện hành quy định quyền hạn và nhiệm vụ của Uỷ ban Kiểm tra Liên hiệp hội Việt Nam là “Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm Điều lệ và quy chế hoạt động…”. Điều này có thể được hiểu là công tác kiểm tra bắt đầu khi:
a. Sự vi phạm Điều lệ và quy chế hoạt động đã phát ra hoặc để lại dấu hiệu.
b. Dấu hiệu đó đã đến được Uỷ ban Kiểm tra.
Vấn đề đặt ra ở đây là:
a. Dấu hiệu vi phạm được phát hiện và đến với Uỷ ban Kiểm tra bằng cách nào?
b. Trong thời gian từ khi vi phạm xảy ra đến khi có dấu hiệu và dấu hiệu đó đến được Uỷ ban Kiểm tra thì nội dung của công tác kiểm tra là gì?
Nên chăng có thể diễn đạt Khoản 1 đó là “Kiểm tra việc chấp hànhĐiều lệ và quy chế”. Như thế, kiểm tra trở thành công việc thường xuyên, tích cực và chủ động, bao gồm cả các khâu phòng ngừa, phát hiện, đánh giá và xử lý hoặc kiến nghị xử lý. Với cách diễn đạt đó, công tác kiểm tra cũng bao gồm cả việc phát hiện những yếu tố tích cực, người tốt, việc tốt để có cơ sở kịp thời đề xuất biểu dương, khen thưởng hoặc đề nghị Nhà nước khen thưởng. Như vậy, công tác kiểm tra không chỉ tìm tộivà trị tộimà còn tìm côngvà thưởng công, không chỉ chêmà còn có cả khen,một điều rất có ý nghĩa trong một môi trường hoạt động luôn cần lấy sự thuyết phục, vận động, khích lệ làm đầu. Cách diễn đạt này cũng tránh được tình huống “khó xử” đối với từ vàở giữa các từ Điều lệ và quy chế hoạt động, bởi vì hiển nhiên là không phải chờ cho đến khi có dấu hiệu vi phạm cảĐiều lệ lẫn(và) quy chế hoạt động thì công tác của Uỷ ban Kiểm tra mới bắt đầu.
3. Ở chương này có một cụm từ được sử dụng 2 lần. Đó là “Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội bầu ra…” tại Điều 17 và tại Điều 19. Nên chăng gộp các thực thể được bầu vào một điều và như vậy sẽ tránh được sự trùng lặp nêu trên, chẳng hạn: “Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam bầu ra Đoàn Chủ tịch và Uỷ ban Kiểm tra”.
4. Với cách diễn đạt ở Điều 17 “Đoàn Chủ tịch gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký và một số uỷ viên”, người đọc khó hình dung trong số những người được bầu vào Đoàn Chủ tịch thì ai sẽ là Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký và các uỷ viên và ai quyết định việc đó. Cho đến nay, Liên hiệp hội Việt Nam thường có nhiều (các), chứ không phải chỉ có một Phó Chủ tịch. Trong cụm từ nêu trên không có chỗ cho Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra, một chức danh xứng đáng được dành một vị trí quan trọng. Trong khi đó, Điều lệ hiện hành lại không hề có chỗ nào nói về sự bầu Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Liên hiệp hội Việt Nam . Số lượng uỷ viên Đoàn Chủ tịch và Uỷ ban Kiểm tra cũng không được nhắc đến ở bất cứ chỗ nào.
Nên chăng xem xét cách diễn đạt Điều 17 hiện hành như sau: “Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam bầu ra Đoàn Chủ tịch và Uỷ ban Kiểm tra, bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra và Tổng Thư ký trong số các uỷ viên Đoàn Chủ tịch. Số lượng uỷ viên, thể thức bầu các cơ quan kể trên do Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam quyết định”.
Trong trường hợp ý kiến trên đây được chấp thuận thì mặc nhiên câu thứ nhất ở Điều 19 hiện hành cũng như đoạn một và đoạn hai ở Điều 20 hiện hành không còn cần thiết nữa.
Tại chương VI Khen thưởng và kỷ luật, cách diễn đạt ở Điều 24 hiện hành bỏ sót một số đối tượng, đó là các cán bộ chuyên trách công tác hội làm việc tại cơ quan trung ương Liên hiệp hội Việt Nam cũng như những người ngoài Liên hiệp hội Việt Nam và do đó không phải là hội viên của một hội nào, nhưng lại “có thành tích trong công tác hội”, trong đó có thể có cả người nước ngoài. Trong thực tế nhiều năm qua, Liên hiệp hội Việt Nam đã từng khen thưởng và đề nghị khen thưởng nhiều người thuộc các diện đối tượng này. Vấn đề sẽ có thể được giải quyết nếu Điều này quy định đối tượng khen thưởng là “các tập thể và cá nhân”, vừa đơn giản lại vừa đầy đủ. Tương tự như vậy đối với Điều 25 hiện hành.
Trên đây là một số suy nghĩ của chúng tôi trong giai đoạn này và có thể chưa đầy đủ. Kính mong bạn đọc cùng tham gia trao đổi ý kiến nhằm góp phần xây dựng Điều lệ khoá VI đáp ứng yêu cầu phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam trong giai đoạn mới.








