Một số vấn đề về trích lập và sử dụng quỹ phát triển khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp
1. Mở đầu
Thế kỷ 21 đang chứng kiến sự bùng nổ của một hệ thống các công nghệ mới, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ thống công nghệ này đang làm biến đổi sâu sắc thế giới, từ nền kinh tế công nghiệp chuyển lên nền kinh tế tri thức. Có thể nói xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ tới chính là xu thế kinh tế tri thức dựa vào các tiến bộ khoa học công nghệ đi đôi với quá trình toàn cầu hóa.
Nhận thức được xu thế tất yếu này, nền kinh tế Việt Nam đang khởi động quá trình tái cấu trúc nhằm phát triển theo chiều sâu, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (KHCN) để phát triển nhanh đi đôi với phát triển bền vững. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp của Việt Nam muốn vững vàng vươn ra bể lớn, rút ngắn khoảng cách phát triển với các Tập đoàn/Công ty lớn trên thế giới, tăng khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế, không có lựa chọn nào khác ngoài việc đẩy mạnh áp dụng và làm chủ các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao và có trình độ quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp.
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định khoa học và công nghệ, cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, trong những năm qua, sự phát triển của nền khoa học và công nghệ Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước, như đã được Bộ Khoa học và Công nghệ tổng kết trong Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ: “Hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới; chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã được nghiên cứu; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn…”
Đế góp phần khắc phục các tồn tại và yếu kém của nền khoa học và công nghệ nước nhà, tạo nguồn vốn cho phát triển khoa học và công nghệ, trong những năm qua nhiều chính sách dành ưu tiên cho phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành và được cụ thể hóa trong hệ thống phát luật của Việt Nam, trong đó phải kể đến các quy định của pháp luật về việc trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp.
Bài viết giới thiệu các cơ sở pháp lý trích lập Quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp, thực trạng trích lập Quỹ này trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam nói riêng và đưa ra một số gợi ý về cơ chế quản lý/ sử dụng Quỹ phát triển KHCN nhằm sử dụng có hiệu quả nhất nguồn vốn từ Quỹ này nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, thực hiện định hướng phát triển theo chiều sâu và phát triển nền kinh tế tri thức ngay trong các Tổng công ty/ Đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
2. Cơ sở pháp lý trích lập quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp
Điều 38 Luật Khoa học và công nghệ số 21/2000/QH 10 quy định: (i) Doanh nghiệp được dành một phần vốn để đầu tư phát triển khoa học và công nghệ nhằm đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư phát triển khoa học và giá thành sản phẩm; (ii) Doanh nghiệp được lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động đầu tư phát triển khoa học và công nghệ.
Điều 45 Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH 11 quy định: Doanh nghiệp được trích một phần lợi nhuận trước thuế hàng năm lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để tiến hành hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Trong thời hạn năm năm, nếu Quỹ không được sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích thì doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhà nước phần thuế thu nhập doanh nghiệp trên số lợi nhuận trước thuế mà Nhà nước để lại cho doanh nghiệp và phần lãi phát sinh từ khoản lợi nhuận trước thuế đó.
Điều 17 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 17/2008/QH 12 quy định: (i) Doanh nghiệp được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp; (ii) Trong thời hạn năm năm , kể từ khi trích lập, nếu Quỹ phát triển khoa học và công nghệ không được sử dụng hoặc sử dụng không hết 70% hoặc sử dụng không đúng mục đích thì doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhà nước phần thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên khoản thu nhập đã trích lập mà không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích và phần lãi phát sinh từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đó.
![]() |
Điều 41 và 42 Nghị định 81/2002/NĐ-CP hướng dẫn thi hành chi tiết Luật Khoa học và Công nghệ quy định: (i) Doanh nghiệp được tính các khoản chi phí phát triển khoa học và công nghệ vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế, bao gồm các khoản chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, mua thông tin, tư liệu công nghệ, sở hữu công nghiệp và chi phí cho các hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Các khoản đầu tư về công nghệ tạo thành tài sản cố định được phân bổ trừ dần vào chi phí sản xuất; (ii) Doanh nghiệp được lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động đầu tư cho khoa học và công nghệ theo yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. Nguồn vốn của Quỹ này được hình thành từ lợ nhuận trước thuế của doanh nghiệp và các nguồn khác nếu có; (iii) Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc các định thu nhập không phải chịu thuế thực hiện theo quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp; (iv) Kinh phí tổ chức khoa học và công nghệ nhận được từ việc ký kết hợp đồng thực hiện các chương trình, đề tài, dự án sử dụng ngân sách nhà nước và các đề tài, dự án do các quỹ phát triển khoa học và công nghệ tài trợ không phải chịu thuế giá trị gia tăng.
Như vậy, cơ sở pháp lý của việc hình thành Quỹ phát triển khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Quỹ) đã rõ ràng và cụ thể: Theo các quy định hiện hành, doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo quy định của phát luật được phép tối đa 10% lợi nhuận trước thuế để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Ngoài ra, các hoạt động khoa học và công nghệ được tài trợ từ Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…
3. Một số đặc trưng của quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp
Nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc trích lập và sử dụng Quỹ phát triển KHCN, ngày 16/05/2007, Bộ Tài chính đã có quyết định số 36/2007/QB-BTC ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển KHCN của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. Căn cứ vào các quy định hiện hành của pháp luật và các hướng dẫn của Bộ Tài chính, Quỹ Phát triển KHCN trong doanh nghiệp có một số đặc trưng sau đây:
* Doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả, hoạt động có lãi mới được phép trích lập Quỹ phát triển KHCN
* Quỹ có thể được tổ chức dưới một trong hai hình thức:
- Đơn vị độc lập có tư cách pháp nhân đầy đủ trực thuộc doanh nghiệp .
- Một bộ phận (không có tư cách pháp nhân riêng) thuộc doanh nghiệp
* Người có thẩm quyền cao nhất của doanh nghiệp quyết định thành lập Quỹ: Chủ tịch Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần), Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh), Chủ doanh nghiệp tư nhân (đối với doanh nghiệp tư nhân) hoặc Tổng Giám đốc, Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị).
* Đối với doanh nghiệp tổ chức theo mô hình Công ty mẹ, Công ty con: Trên cơ sở quy định về tỷ lệ trích quỹ, căn cứ quyền hạn, trách nhiệm của Công ty mẹ đối với doanh nghiệp thành viên, Công ty mẹ quy định tỷ lệ điều chuyển nguồn vốn giữa Quỹ của Công ty mẹ với Quỹ của doanh nghiệp thành viên, Công ty con trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ của toàn hệ thống.
* Đối với công ty trực thuộc Tổng công ty, hoặc là Công ty con được sử dụng nguồn vốn của Quỹ để chi nộp về Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Tổng công ty hoặc Công ty mẹ
* Mục tiêu hoạt động của Quỹ tương đối mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi tối đa để giúp doanh nghiệp phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Nguồn vốn của Quỹ được sử dụng để tài trợ không những cho hoạt động nghiên cứu và phát triển mà còn cho các mục đích ứng dụng và đổi mới công nghệ, hoạt động sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cụ thể:
- Cấp kinh phí để thực hiện các đề tài, dự án khoa học và công nghệ của doanh nghiệp;
- Trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động khoa học và công nghệ của doanh nghiệp;
- Mua bản quyền công nghệ, quyền sử dụng, quyền sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,… phục vụ cho hoạt động khoa học và công nghệ của doanh nghiệp;
- Trả lương, chi thuê chuyên gia hoặc hợp đồng với tổ chức khoa học và công nghệ để thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ của doanh nghiệp (không bao gồm tiền lương quản lý chung của Quỹ);
- Chi phí cho đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp;
- Chi cho các hoạt động sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
* Vốn hoạt động của Quỹ không sử dụng hết trong năm tài chính được chuyển sang năm tài chính tiếp theo. Mỗi chu kỳ 05 năm, nếu số dư của quỹ từ 70% trở lên trên tổng số lợi nhuận đã trích trong 05 năm, thì doanh nghiệp phải trích nộp ngân sách nhà nước số thuế thu nhập doanh nghiệp trên số lợi nhuận trước thuế mà Nhà nước để lại cho doanh nghiệp tương ứng với số dư còn lại của Quỹ cộng phần quỹ sử dụng không đúng mục đích và phần lãi phát sinh từ khoản lợi nhuận trước thuế đó. Lãi suất tính lãi được áp dụng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của ngân hàng nơi Quỹ mở tài khoản giao dịch và thời gian tính lãi là 2 năm.
* Doanh nghiệp không được sử dụng nguồn vốn của Quỹ để đầu tư cho các hoạt động khác không gắn với việc phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp
* Hàng năm Quỹ lập kế hoạch tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ của doanh nghiệp báo cáo người có thẩm quyền cao nhất của doanh nghiệp phê duyệt. Kế hoạch hỗ trợ tài chính hàng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ của doanh nghiệp bao gồm cả hoạt động khoa học và công nghệ của công ty thành viên, công ty con (trong trường hợp là Quỹ của Tổng công ty, Công ty mẹ).
![]() |
4. Nguồn vốn cho KHCN và thực trạng trích lập và sử dụng quỹ phát triển KHCN trong các doanh nghiệp Việt Nam
Hàng năm, Quốc hội phân bổ 2% tổng chi phí ngân sách nhà nước (tương đương khoảng 0,5%GDP) cho KHCN nhằm thúc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và áp dụng thành tựu KHCN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tỷ trọng đầu tư cho KHCN của doanh nghiệp còn ít, chưa đến 0,1%GDP. Hầu hết các doanh nghiệp của chúng ta đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có điều kiện đầu tư cho KHCN. Các doanh nghiệp lớn chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, nhưng đầu tư cho lĩnh vực này còn rất khiêm tốn.
Tại cuộc Hội thảo về Quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp do Hội viện Tài chính tổ chức tháng 11/2010 vừa qua, các tham luận tại Hội thảo cho thấy mặc dù cơ sở pháp lý đã có nhưng Quỹ phát triển KHCN vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Số lượng các doanh nghiệp đã trích lập Quỹ phát triển KHCN để tạo nguồn vốn ứng dụng, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp chưa nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ vai trò và tầm quan trọng của KHCN trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển vững chắc theo chiều sâu của doanh nghiệp. Mặt khác, một số ý kiến cũng cho rằng tuy hành lang pháp lý đã có nhưng các quy định về sử dụng Quỹ phát triển KHCN còn một số điểm hạn chế, thiếu hướng dẫn cụ thế dẫn đến chưa thực sự khuyến khích doanh nghiệp trích lập Quỹ phát triển KHCN.
Đại diện Bộ Tài chính tại Hội thảo cho biết, Bộ đang chủ trì soạn thảo để ban hành trong thời gian tới một Thông tư/ Quy định mới hướng dẫn trích lập và sử dụng Quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp, theo hướng tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn với các hướng dẫn cụ thể hơn. Một số chế tài khuyến khích hơn hiện nay đang được tính tới, ví dụ như cứ trích 1 đồng cho nghiên cứu và phát triển KHCN thì sẽ được miễn thuế 1,5 đồng. Hy vọng rằng Thông tư/Quy định sắp ban hành của Bộ tài chính sẽ khắc phục được các tồn tại được xem là chưa khuyến khích của Quyết định 36/2007/QB-BTC và bởi vậy, Quỹ phát triển KHCN vào cuộc sống thực tiễn của các doanh nghiệp.
5. Các giải pháp đột phá về KHCN và việc trích lập, sử dụng quỹ phát triển KHCN trong các đơn vị thành viên tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
Trong những năm qua, khoa học và công nghệ luôn được xác định là lĩnh vực ưu tiên trong định hướng chính sách phát triển của Tập đoàn. Tỷ trọng đầu tư trang bị cơ sở vật chất và cho nghiên cứu khoa học của Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ngày càng tăng. Tuy vậy, nguồn vốn cho phát triển KHCN trong phạm vị toàn Tập đoàn (của Công ty mẹ và các đơn vị thành viên) vẫn còn ở mức độ khiêm tốn và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và để nâng cao tiềm lực KHCN Dầu khí Việt Nam.
Bước vào giai đoạn phát triển mới tiếp theo (2011 - 2015 và sau 2015), nhằm phát triển từng bước vững bền Ngành Dầu khí Việt Nam, với mục tiêu bắt kịp các Tập đoàn/ Công ty dầu khí lớn trong khu vực và trên thế giới, khoa học và công nghệ đã được Lãnh đạo Tập đoàn xác định là một trong ba mũi nhọn đột phá, cùng với đột phá về quản lý và đào tạo nguồn nhân lực. Ngày 20/10/2010 vừa qua, Hội đồng thành viên Tập đoàn đã ký Quyết định số 9521/QĐ-DKVN phê duyệt “ Các giải pháp đột phá về khoa học và Công nghệ nhằm phát triển nhanh và bền vững Petrovietnam”. Một trong các giải pháp đột phá về KHCN được phê duyệt chính là cơ chế tạo nguồn vốn cho KHCN thông qua việc trích lập Quỹ phát triển KHCN trong các Tổng công ty/ Đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam theo các quy định hiện hành của Nhà nước. Tổng giám đốc Tập đoàn đã có CV số 9691/DKVN-KHCN ngày 26/10/2010 yêu cầu người đại diện phần vốn Tập đoàn tại các đơn vị thành viên triển khai các biện pháp và hành động cụ thể để thực hiện thành công nhất các giải pháp đột phá về KHCN đã được HĐTV phê duyệt.
Hy vọng rằng giải pháp tạo nguồn vốn cho KHCN thông qua trích lập Quỹ phát triển KHCN sẽ đi vào thực tiễn hoạt động của các Tổng công ty/Đơn vị thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam; Cùng với nguồn lực từ Quỹ NCKH và Đào tạo của Công ty mẹ, sẽ tạo ra được nguồn lực vật chất đáng kể làm tiền đề hết sức quan trọng để nghiên cứu & phát triển khoa học và công nghệ, chuyển giao, đổi mới và ứng dụng công nghệ cao, tiên tiến trong các lĩnh vực hoạt động cốt lõi, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, nâng cao hiệu quả và chất lượng tăng trưởng của mỗi đơn vị và toàn Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
Vấn đề còn lại là làm sao sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn từ các Quỹ phát triển KHCN này. Muốn vậy, mỗi Tổng công ty/Đơn vị thành viên phải xây dựng được Quy chế sử dụng Quỹ phát triển KHCN để sử dụng nguồn vốn này một cách “khôn ngoan nhất”, hiệu quả nhất, thiết thực nhất và đúng mục tiêu chiến lược đã lựa chọn dựa trên các định hướng phát triển của đơn vị, nằm trong chiến lược phát triển tổng thể của Tập đoàn và phù hợp với đặc thù riêng của đơn vị. Với các Tổng công ty/Đơn vị SXKD, nguồn vốn từ Quỹ phát triển KHCN nên dành ưu tiên số một cho vấn đề đổi mới, ứng dụng công nghệ, bảo dưỡng, sửa chữa và nhận chuyển giao công nghệ hiện đại/tiên tiến nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc tế hoặc để phát triển các sản phẩm mới/lĩnh vực dịch vụ KHCN cao mới, hơn là để giải quyết các đề tài/nhiệm vụ nghiên cứu khoa học thuần túy.
Kết luận
Việc cho phép trích lập Quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp là một bước đi nhằm cụ thể hóa các chính sách ưu tiên phát triển KHCN của Đảng và Nhà nước, tạo nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp đổi mói và ứng dụng công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Với các Tổng công ty, Công ty hoạt động theo mô hình Công ty mẹ/Công ty con, các quy định hiện hành cho phép hình thành một hệ thống các Quỹ phát triển KHCN từ Công ty mẹ đến các Công ty con thành viên và cho phép Công ty mẹ quy định tỷ lệ điều chuyển nguồn vốn giữa các Quỹ này nhằm phát triển khoa học và công nghệ trong toàn hệ thống (Tổng công ty, Công ty mẹ và các Công ty con). Để sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ hệ thống các Quỹ phát triển KHCN này, hằng năm Công ty mẹ và các Công ty con phải lập kế hoạch ứng dụng, đổi mới công nghệ, nghiên cứu khoa học sát với yêu cầu thực tế sản xuất kinh doanh. Vấn đề cuối cùng là doanh nghiệp (Tổng công ty, Công ty mẹ/Công ty con), trên cơ sở các quy định hiện hành của Nhà nước, phải soạn thảo và ban hành áp dụng Quy chế sử dụng Quỹ phát triển KHCN phù hợp nhất với mô hình tổ chức và thực tiễn của doanh nghiệp mình để nguồn vốn từ Quỹ phát triển KHCN được tài trợ đúng yêu cầu đổi mới, ứng dụng công nghệ của doanh nghiệp, nhằm mục tiêu nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế và qua đó định hướng phát triển doanh nghiệp bền vững theo chiều sâu, hướng tới phát triển nền kinh tế tri thức ngay trong doanh nghiệp.










