Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 28/08/2007 15:50 (GMT+7)

Một số vấn đề về phát triển áp dụng công nghệ khai thác mới nhằm nâng cao sản lượng than hầm lò

1. Áp dụng vì chống thuỷ lực (cột chống thuỷ lực đơn, giá thuỷ lực di động) trong các gương khai thác

Với chương trình triển khai áp dụng vì chống thuỷ lực của Tổng Công ty Than Việt Nam và mức độ tập trung thực hiện trong công tác nghiên cứu, tư vấn của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, đến nay hầu hết các mỏ đã đưa vào sử dụng vì chống thuỷ lực chống giữ đại trà trong các gương khai thác.

Qua kết quả nghiên cứu đánh giá các khu vực áp dụng vì chống thuỷ lực và thực tế áp dụng thử nghiệm vì chống thuỷ lực ở các lò cho thấy, điều kiện địa chất kỹ thuật mỏ các lò chợ sử dụng vì chống thuỷ lực ở phạm vi rộng và trong nhiều điều kiện khác nhau:

- Chiều dày vỉa dao động từ 1,31 - 8,82 m (phổ biến áp dụng đối với cột thuỷ lực đơn trong điều kiện chiều dày của vỉa từ dày trung bình đến dày).

- Góc dốc vỉa dao động từ 5 - 43 0(áp dụng cho cột thuỷ lực đơn trong điều kiện góc dốc đến 35 0).

- Chiều dài lò chợ 60 - 140 m (phổ biến 100 - 120 m).

- Chiều cao khấu lò chợ cột thuỷ lực đơn từ 1,3 - 2,2 m và với giá thuỷ lực di động trung bình 2,2m kết hợp thu hồi than nóc với chiều dày 0,8 - 6,6m.

- Cấu tạo và tính chất cơ lý đá vách vỉa tại các khu vực lò chợ đã áp dụng vì chống thuỷ lực rất đa dạng bao gồm các loại acgilít, alêvrôlít, đất đá phá hoả có độ bền vững khác nhau từ bền vững trùng bình đến bền vững. Đa số thuộc loại bền vững trung bình dễ sập đổ.

- Cấu tạo và tính chất cơ lý đá trụ vỉa từ kém bền vững đến bền vững trung bình trong quá trình chống giữ tại một số lò chợ do cường độ kháng lún nền kém phải bổ sung giải pháp tăng cường đế chân cột.

- Các sơ đồ công nghệ khai thác đã được áp dụng:

+ Cột dài theo phương, phá hoả toàn phần, khấu than bằng khoan nổ mìn;

+ Cột dài theo phương, cơ giới hoá khai thác lò chợ;

+ Cột dài theo phương, khấu lớp trụ thu hồi than nóc bằng khoan nổ mìn;

+ Chia lớp nghiêng, khai thác lớp vách và lớp trụ bằng khoan nổ mìn;

+ Chia lớp nghiêng, khấu lớp trụ thu hồi than lớp giữa bằng khoan nổ mìn;

+ Chia lớp ngang nghiêng thu hồi than nóc.

Qua thống kê các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật đạt được tại các lò chợ sử dụng vì chống thuỷ lực cho thấy sản lượng khai thác hàng tháng tăng lên đến 10.000 T/tháng, năng xuất lao động đến 4,0 T/công. Thực chất sản lượng khai thác tại các lò chợ chống vì thuỷ lực trong thời gian qua chưa thể hiện đúng với năng lực công suất của lò chợ do sự hạn chế của nhu cầu sản lượng, do ảnh hưởng của dây chuyền vận tải, do ảnh hưởng của các yếu tố địa chất và kỹ thuật phức tạp như lò chợ đi qua phay, đi qua lò cũ dưới lớp trụ v.v…

Theo các chỉ tiêu thực tế, nếu hoàn thiện các khâu phụ trợ, vận tải, công suất lò chợ chống vì thuỷ lực đơn có thể đạt 100.000 T/năm, lò chợ chống giá thuỷ lực di động đạt 150.000 T/năm. Áp dụng vì chống thuỷ lực đồng thời cho phép giảm chi phí gỗ từ 2 - 3 lần so với chống bằng gỗ, chi phí gỗ trong lò chợ chống cột thuỷ lực dao động từ 12 - 18 m 3/1000 T, sử dụng gía thuỷ chi phí gỗ 2 - 3 m 3/1000 T. Tổn thất than trong khai thác lò chợ chống bằng thuỷ lực giảm xuống 10% - 15%.

Trong quá trình áp dụng vì chống thuỷ lực tại các mỏ hầm lò nảy sinh một số điểm còn tồn tại và cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện nhằm khắc phục và phát triển công nghệ, đạt hiệu quả sản xuất và tăng mức độ an toàn lao động. Các phát sinh tồn tại trong sử dụng vì chống thuỷ lực tại các mỏ hầm lò tập trung chủ yếu trong các nội dung sau:

- Ảnh hưởng của điều kiện đá vách và đá trụ đến công tác điều khiển áp lực mỏ trong các sơ đồ công nghệ khai thác chống giữ gương bằng các loại vì chống thuỷ lực đặc biệt đối với giá thủy lực di động.

- Mối tương quan giữa chiều dày vỉa than và chiều cao khấu hợp lý khi sử dụng vì chống thuỷ lực nhằm cải thiện điều kiện chống giữ, mức độ an toàn lao động, giảm thiểu tối đa tổn thất than do công nghệ.

- Yếu tố góc dốc vỉa tác động đến việc lựa chọn sơ đồ công nghệ khai thác sử dụng vì chống thuỷ lực, lựa chọn loại hình vì chống thuỷ lực thích hợp, các giải pháp kỹ thuật xử lý trong quá trình khai thác khi cục bộ góc dốc vỉa thay đổi do biến động địa chất.

Với các phát sinh tồn tại trên, qua nghiên cứu trong quá trình áp dụng vì chống thuỷ lực tại các mỏ kết hợp với các kinh nghiệm khai thác vì chống thuỷ lực tại nước ngoài (Trung Quốc, CHLB Nga) và các lý thuyết tính toán giả định đề xuất phương hướng hoàn thiện nó như sau:

- Đối với điều kiện đá vách bền vững, lựa chọn áp dụng sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương hoặc chia lớp nghiêng điều khiển đá vách sập đổ toàn phần bằng phương pháp khoan nổ mìn cưỡng bức, lớp trụ được chống giữ bằng giá thuỷ lực di động thu hồi than lớp giữa.

Thực tế sản xuất cho thấy vấn đề điều khiển đá vách cần được tiến hành xem xét nghiên cứu một cách kỹ lưỡng với các điều kiện đá vách bền vững, đá vách sập đổ theo chu kỳ với bước sập đổ từ 3 - 8 m, vỉa than dày trung bình (m < 4,5 m) thường xảy ra hiện tượng rỗng nóc trên giá thuỷ lực. Với các điều kiện vỉa như trên khi áp dụng cần có các biện pháp chủ động điều khiển đá vách thông qua các giải pháp cưỡng bức như khoan làm mềm yếu đá vách phía trước gương khai thác; khoan lỗ khoan dài phá hoả cưỡng bức đá vách luồng phá hoả theo tiến độ khai thác và chu kỳ sập đổ của đá vách; các giải pháp tăng cường chống giữ khi đến chu kỳ sập đổ đá vách.

- Về vấn đề mối tương quan giữa chiều dày của vỉa than và chiều cao khấu hợp lý khi sử dụng vì chống thuỷ lực cho thấy, hiện nay các mỏ đang khai thác các vỉa với chiều dày mỏng đến dày trung bình (đến 3,5 m) thông thường khai thác bằng cột thuỷ lực đơn theo sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, khấu một lớp bám vách với chiều cao khấu trung bình 2,2 m, điều này hợp lý trong vấn đề chủ động điều khiển đá vách sau khi khai thác, tuy nhiên lại gây ra tổn thất than lớn khi bỏ lại lớp than nền dẫn đến hiệu quả khai thác thấp, lãng phí vốn đầu tư khai thác. Để giải quyết mối tương quan giữa chiều dày vỉa than và chiều cao khấu hợp lý nên xem xét các phương án sau:

+ Khai thác chia lớp nghiêng, các lớp khấu đảm bảo chiều cao chống giữ các vì chống thuỷ lực và lựa chọn khoảng cách hợp lý giữa gương khấu của các lớp khai thác. Khai thác chia lớp nghiêng khi vỉa dày trung bình, lớp than giữa không đủ chiều dày cần thiết cần có các giải pháp tạo lớp ngăn cách đặc biệt giữa các lớp khấu.

+ Khấu đồng thời hết chiều dày vỉa đối với vỉa có chiều dày đến 3,5 m bằng việc phối hợp giữa các loại cột chống có chiều cao chống giữ khác nhau. Chia chiều cao khấu thành các lớp đảm bảo dễ thao tác sử dụng vì chống trong chống giữ và điều khiển đá vách.

+ Khấu lớp trụ thu hồi than nóc bằng vì chống thủy lực, vì chống liên hoàn tránh sử dụng vì chống đơn chiếc cho các điều kiện vỉa có chiều dày lớn. Trong trường hợp vỉa có chiều dày trung bình khi áp dụng giá thuỷ lực di động nên lựa chọn trong điều kiện đá vách mềm yếu, bền vững trung bình dễ sập đổ sau khi di chuyển vì chống, với các điều kiện vỉa dày trung bình, đá vách bền vững có bước sập đổ lớn cần có các giải pháp cưỡng bức đá vách.

+ Trong điều kiện vỉa có chiều dày lớn, đá vách sập đổ ít ảnh hưởng đến gương khai thác, góc dốc vỉa đến 42 0- 45 0có thể sử dụng giá thuỷ lực di động để khai thác; nhưng cần hạn chế chiều dài lò chợ (40 - 60 m). Trong khai thác bằng cột chống thuỷ lực đơn, ngoài các giải pháp xử lý tăng cường gánh liên kết khi lò chợ cục bộ có vị trí góc dốc lớn (40 - 42 0), đối với vỉa có góc dốc lớn 35 0, xem xét sử dụng công nghệ khai thác cột dài theo phương, khấu lò chợ xiên chéo hoặc chia phân đoạn. Trong điều kiện vỉa dày có góc dốc lớn > 60 0xem xét sử dụng công nghệ khai thác chia lớp ngang nghiêng sử dụng giá thuỷ lực di động hoặc vì chống liên hợp thu hồi than nóc.

- Hiện nay khai thác lò chợ sử dụng vì chống thuỷ lực tại các mỏ, sản lượng khai thác và năng suất lao động phụ thuộc nhiều vào chiều dài lò chợ. Ngoại trừ các công tác phụ trợ khác như vận tải, cung cấp điện, thông gió và thoát nước, chiều dài lò chợ càng lớn thì sản lượng khai thác và năng suất lao động càng cao. Với kết quả thực tế áp dụng, nên xem xét trong các quy hoạch khai thác mới tăng chiều dài tối đa có thể được, chiều dài lò chợ hợp lý trong điều kiện kỹ thuật như hiện nay ở các mỏ dao động trong khoảng 120 - 140 m.

2. Cơ giới hoá khấu than bằng máy khấu combai

Cùng với việc phát triển áp dụng rộng rãi vì chống thuỷ lực ở các hầm lò, ngành Than đã tập trung nghiên cứu phát triển các sơ đồ công nghệ cơ giới hoá khai thác hầm lò. Cơ giới hoá khai thác là vấn đề then chốt để nâng cao sản lượng và hiệu quả khai thác các mỏ hầm lò, cần tiến hành theo hướng cơ giới hoá từng phần, cơ giới hoá đồng bộ khâu khấu than, chống giữ, vận tải để nhằm nâng cao trình độ cơ khí hoá dây chuyền sản xuất, thay thế dần lao động thủ công bằng lao động máy móc, tạo bước nhảy vọt về công nghệ.

Từ năm 2002, với kết quả áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới đã áp dụng thử nghiệm thành công mô hình công nghệ cơ giới hoá khai thác than bằng máy khấu combai MG - 200W1 đi với giá thuỷ lực di động tại mức (+32) - (-10) vỉa 14 - 4 Khe Chàm. Kết quả áp dụng thử nghiệm bằng máy liên hợp đã đưa sản lượng khai thác 200.000 T/năm, tăng năng suất lao động lên 7,5 T/công.ca, tăng hiệu quả sản xuất, mức độ an toàn lao động và cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân khai thác hầm lò.

Để hoàn thiện và phát triển cơ giới hoá khấu than cần tập trung vào việc phát triển rộng rãi áp dụng vì chống thuỷ lực, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất lò chợ - lò chuẩn bị - lò vận chuyển chính - điểm rót than, đặc biệt cần hướng đến việc sử dụng máy khấu than, máy bào than đi và cột chống thuỷ lực đơn, giá thuỷ lực di động và dàn tự hành.

Căn cứ vào hiện trạng và trình độ công nghệ khai thác hầm lò tại các mỏ, có thể định hướng phát triển cơ giới hoá khai thác thông qua chuyển giao công nghệ từ nước ngoài và kinh nghiệm đã áp dụng trong điều kiện tương tự của TVN cho các điều kiện địa chất - kỹ thuật mỏ vùng than Quảng Ninh theo lộ trình phát triển sau:

- Cơ giới hoá khấu than bằng các loại máy khấu combai, máy bào than đi với cột chống thuỷ lực đơn hoặc giá thuỷ lực để đưa công suất lò chợ lên 20 - 30 vạn tấn năm. Tăng cường cơ giới hoá khoan bốc xúc vận tải để đưa tốc độ đào lò đá đến 150 m/tháng và lò than 150 - 200 m/tháng.

- Cơ giới hoá đồng bộ dây chuyền công nghệ khai thác và đào lò chuẩn bị để có được công suất của lò chợ đạt trên 500.000 T/năm, tốc độ lò than trên 200 m/tháng và lò đá trên 150 m/tháng.

Trên cơ sở đánh giá tình hình phát triển công nghệ cơ giới hoá khai thác mỏ than hầm lò trên thế giới và các khu vực có khả năng cơ giới hoá vùng Quảng Ninh, có thể nhận định trong điều kiện Việt Nam phát triển cơ giới hoá khai thác trên cơ sở các sơ đồ công nghệ khai thác cơ bản sau:

- Sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, khấu toàn bộ chiều dày vỉa áp dụng cho vỉa mỏng đến dày tại Mạo Khê, Uông Bí, Vàng Danh, Dương Huy, khu vực Ngã Hai và Khe Chàm;

- Sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, hạ trần than nóc áp dụng cho vỉa dày tại Mạo Khê, Hà Lầm, Thống Nhất, Dương Huy và Khe Chàm;

- Sơ đồ công nghệ khai thác chia lớp nghiêng có lớp đệm nhân tạo giữa các lớp khấu áp dụng cho vỉa dày tại Vàng Danh, Uông Bí, khu vực Ngã Hai;

- Sơ đồ công nghệ khai thác chia lớp nghiêng, lớp vách khấu than trải lưới, lớp trụ hạ trần than lớp giữa áp dụng cho vỉa dày Mạo Khê, Vành Danh, Uông Bí và Thống Nhất.

Trong các sơ đồ công nghệ khai thác trên, vấn đề đồng bộ trang thiết bị cơ giới hoá được lựa chọn cho các khu vực khai thác phụ thuộc vào khả năng cân đối tài chính, hiệu quả sử dụng trên nền tảng chính:

- Thiết bị khấu than bằng máy khấu combai tay ngắn, máy bào than, chống giữ gương khai thác bằng cột thuỷ lực đơn;

- Thiết bị khấu than bằng máy khấu combai tay ngắn, máy bào than, chống giữ gương khai thác bằng cột thuỷ lực di động;

- Thiết bị khấu than bằng máy khấu combai tay ngắn, máy bào than, chống giữ gương khai thác bằng các dàn chống tự hành;

- Thiết bị khấu than bằng máy khấu combai tay ngắn, máy bào than, chống giữ gương khai thác bằng các dàn chống tự hành có kết cấu hạ trần than nóc.

Với các kết quả và kinh nghiệm thu được trong quá trình áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác cơ giới hoá tại Khe Chàm, xem xét tiếp tục phát triển áp dụng với các mô hình cơ giới hoá đồng bộ khấu toàn bộ chiều dày vỉa và khấu than với hạ trần than nóc.

3. Công nghệ khai thác chia lớp ngang nghiêng sử dụng vì chống thuỷ lực cho vỉa dày dốc

Để khai thác các vỉa than dốc ta thường áp dụng hệ thống khai thác lò dọc vỉa phân tầng (thực chất đào lò lấy than), công nghệ khai thác buồng, buồng - thượng với hình thức khấu than và để lại các trụ bảo vệ theo kinh nghiệm. Tuy nhiên, các sơ đồ công nghệ trên cho sản lượng khai thác lò chợ thấp ~ 30.000 T/năm, tỷ lệ tổn thất than lớn 40 - 60%, chi phí gỗ chống lò cao đến 45 m 3/1000 T, đặc biệt là khó khăn trong công tác quản lý kỹ thuật và sản xuất dẫn đến thường xuyên vi phạm quy trình kỹ thuật, gây mất an toàn lao động.

Trước yêu cầu đòi hỏi của sản xuất, vấn đề nghiên cứu các sơ đồ công nghệ khai thác trong điều kiện địa chất vỉa dày và dốc là rất cần thiết. Để giải quyết tồn tại trên, các nghiên cứu áp dụng các sơ đồ công nghệ khai thác triển khai theo các hướng chính bao gồm:

- Hoàn thiện các sơ đồ hiện đang áp dụng nhằm nâng cao các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất theo khía cạnh hiệu quả kinh tế và an toàn lao động.

- Nghiên cứu áp dụng thử nghiệm các sơ đồ công nghệ khai thác mới trong một số điều kiện địa chất đặc trưng nhằm phát triển áp dụng rộng rãi tại các mỏ hầm lò.

Nghiên cứu công nghệ khai thác chia lớp ngang nghiêng sử dụng vì chống thủy lực thu hồi than nóc áp dụng cho các vỉa dày dốc tại mỏ hầm lò là một trong các giải pháp thử nghiệm công nghệ mới.

Trong thời gian qua, phối hợp với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, các mỏ Cao Thắng, Dương Huy và Nam Mẫu đã đưa vào áp dụng thử nghiệm thành công công nghệ khai thác chia lớp ngang nghiêng thu hồi than nóc với các loại vật liệu chống giữ gương khai thác bằng giá thuỷ lực và vì chống liên hợp giữa cột thuỷ lực đơn và xà hộp HDFBC - 2400 và phát triển áp dụng rộng rãi tại các khu vực khác có điều kiện tương tự vùng Quảng Ninh như tại Mạo Khê, Vàng Danh, Công ty than Hạ Long, Công ty than Hòn Gai, v.v…

Đánh giá các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật thực hiện được cho thấy, sản lượng khai thác duy trì ổn định trung bình công suất 3.200 - 3.500 T/tháng, năng suất lao động công nhân trực tiếp sản xuất dao động 2,9 - 4,8 T/công, chi phí gỗ chống lò phục vụ khai thác 2,34 - 4,20 m 3/1000 T, chi phí thuốc nổ 140 - 160 kg/1000 T, chi phí kíp nổ 450 - 470 cái/1000T, chi phí lưới thép 650 - 680 kg/1000 T. Đặc biệt một trong các yếu tố cải thiện đáng kể so với các loại hình công nghệ khai thác khi khai thác vỉa dày dốc đó là yếu tố tổn thất than, tổn thất than công nghệ dao động trong khoảng 25,8 - 28,2 % giảm từ 1,5 - 2,5 lần so với công nghệ khai thác bắn buồng.

Qua thời gian áp dụng thử nghiệm tại một số khu vực khai thác cho thấy, sơ đồ công nghệ khai thác và hộ chiếu chống giữ là hợp lý và phù hợp với điều kiện vỉa có chiều dày và góc dốc lớn, dốc đứng. Với hộ chiếu đào, chống theo thiết kế đề ra cho các đường lò chuẩn bị, đảm bảo khả năng đoà, chống đỡ và duy trì trong thời gian tồn tại để khai thác đáp ứng được tiến độ khai thác.

Trong quá trình áp dụng thử nghiệm sơ đồ công nghệ khai thác chia lớp bằng, lớp ngang - nghiêng tại các mỏ hầm lò nảy sinh một số điểm tồn tại và cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện nhằm khắc phục và phát triển công nghệ nhằm đạt hiệu quả sản xuất và tăng mức độ an toàn lao động. Các tồn tại tập trung chủ yếu trong các nội dung sau:

- Hệ thống đường lò chuẩn bị trong khu vực khai thác phức tạp gây khó khăn trong công tác thông gió, thoát nước, vận tải và đi lại, cũng như công tác kế hoạch hoá giữa chuẩn bị và khai thác.

- Mối tương quan hợp lý giữa tốc độ khai thác và tốc độ đào lò chuẩn bị phục vụ khai thác trong khu vực.

- Ảnh hưởng yếu tố điều kiện đá vách, đá trụ và tính chất cơ lý than đến công tác điều khiển áp lực mỏ trong các sơ đồ công nghệ khai thác.

- Mối tương quan hợp lý giữa chiều cao phân tầng và vật liệu chống giữ gương khai thác nhằm cải thiện điều kiện chống giữ, mức độ an toàn lao động và giảm thiểu tối đa tổn thất than do công nghệ.

- Yếu tố góc dốc vỉa tác động đến lựa chọn thông số chiều cao phân tầng và các giải pháp kỹ thuật xử lý trong quá trình khai thác khi cục bộ góc dốc vỉa thay đổi do biến động địa chất.

Với các phát sinh tồn tại trên cần có một số phương hướng hoàn thiện trong điều kiện các vỉa than vùng Quảng Ninh:

- Nhằm giảm chi phí mét lò chuẩn bị, đơn giản hoá sơ đồ hệ đường lò chuẩn bị khai thác trong khu vực, hoàn thiện theo hướng tăng chiều cao phân tầng khai thác bằng việc đưa vào sử dụng các loại thiết bị khoan có chiều dài lớn nhằm phá sập triệt để bằng khoan nổ mìn lớp than nóc phía trên gương khai thác.

- Giải quyết mối tương quan hợp lý giữa tốc độ khai thác và tốc độ đào lò chuẩn bị phục vụ khai thác trong khu vực thông qua việc nghiên cứu đưa vào áp dụng các thiết bị cơ giới hoá các khâu đào lò và khai thác.

- Đưa vào chống giữ gương khai thác bằng các loại vì chống cơ giới chuyên dùng có kháng tải cao và có các cơ cấu đặc biệt thu hồi than nóc.

- Kim loại hoá chống giữ các đường lò chuẩn bị trong khu vực khai thác. Các vì chống đường lò chuẩn bị được thu hồi, luân chuyển sử dụng trong quá trình khai thác giữa các phân tầng.

- Sử dụng các thiết bị vận tải loại nhỏ trong các phân tầng khai thác nhằm mục đích dễ vận chuyển và thao tác vận hành đơn giản trong quá trình khai thác.

- Đưa vào sử dụng các loại quạt thông gió cục bộ có công suất lớn kết hợp ống gió có kết cấu phân chia nhánh thông gió nhằm đơn giản hoá hệ thống thông gió phục vụ khai thác.

- Sử dụng các loại máy cảnh báo khí metan tại chỗ nhằm xác định hàm lượng khí mêtan liên tục trong quá trình đào lò và khai thác.

- Sử dụng các loại máy khoan có đường kính lớn hỗ trợ trong công tác đào chống lò thượng trong khu vực khai thác và phục vụ khoan thăm dò, thoát nước trong quá trình khai thác.

- Đối với các khu vực có góc dốc lớn hoặc các vỉa than có tính chất mềm yếu dễ trượt lở, cần tiến hành chuẩn bị hệ thống đường lò mở vỉa và chuẩn bị trong phân lớp đá trụ của vỉa.

- Xem xét tối đa sử dụng hệ thống mở vỉa và chuẩn bị trong đá để khai thác các cụm vỉa dốc gần nhau.

Với thành công trong việc áp dụng công nghệ khai thác chia lớp ngang nghiêng đã giải quyết được vấn đề công nghệ trong điều kiện các vỉa dày dốc vùng Quảnh Ninh.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

VUSTA làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST)
Ngày 7/8, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST). Đây là hoạt dộng trong khuôn khổ Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24 của AFEO do VUSTA tổ chức đăng cai.
Vinh danh 20 kỹ sư tiêu biểu tại Hội nghị AFEO năm 2025
Ngày 6/8, tại Đà Nẵng, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị AFEO Midterm 2025 do Liên đoàn các Tổ chức Kỹ sư ASEAN (AFEO) phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, 20 kỹ sư đến từ các đơn vị của Việt Nam đã được vinh danh tại Lễ trao chứng chỉ Kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPE) năm 2025.
Khai mạc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.
Ba mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN
Nằm trong khuôn khổ chuỗi hội thảo thuộc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng do Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, Hội thảo Thành phố thông minh - Hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống đã xác định được 3 mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN.
Khai mạc phiên toàn thể của Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam nhiệm kỳ 2025-2030
Ngày 31/7, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ lần thứ nhất. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam chủ trì Hội nghị.
Sửa Luật Đất đai 2024: Đề xuất 2 phương án về bảng giá đất, bỏ "nguyên tắc thị trường"
Tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2024, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất bỏ nguyên tắc thị trường trong xác định giá đất, thay vào đó Nhà nước đóng vai trò chủ thể xác định; đồng thời đề xuất 2 phương án khi xây dựng bảng giá đất...