Một số vấn đề về lò gạch liên tục kiểu đứng
Ngày 22.2.2009, Hiệp hội sản xuất gạch sét nung công nghệ cải tiến tỉnh Hải Dương đã chính thức ra mắt và tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Tại Đại hội, nhiều đại biểu còn có ý kiến băn khoăn về việc chính quyền địa phương vẫn coi lò gạch liên tục kiểu đứng là lò thủ công, và sẽ phải dỡ bỏ trong thời gian sắp tới.
Sau đây là ý kiến một số chuyên gia về lò gạch liên tục kiểu đứng:
TS Lương Đức Long - Phó Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng:
![]() |
Lò gạch liên tục kiểu đứng là loại lò được phát triển từ lò đứng. Tuy nhiên, nó được phát triển khi đã có lò tuynel. Chính vì vậy, nhiều vấn đề công nghệ trong lò tunel đã được ứng dụng trong lò đứng liên tục. Những lò đứng mới được xây dựng gần đây có nhiều khâu đã được cơ giới hoá, như: Nung liên tục, dỡ gạch và vận chuyển sản phẩm bằng goòng có hệ thống tự động. Do tận dụng được yếu tố truyền nhiệt theo quy luật tự nhiên và không phải đốt nóng xe goòng nên thực tế lò đứng liên tục cũng giảm được nhiên liệu nung gạch. Việc giảm nhiên liệu sẽ giúp giảm phát thải CO2. Với các cấu hình lò đứng liên tục như những lò mới được xây dựng gần đây, hoàn toàn có thể nghĩ đến vấn đề nâng cao mức độ cơ giới hoá, thậm chí tự động hoá quá trình nung.
Tuy nhiên, lò loại này cũng có nhược điểm: Khâu xếp gạch vào lò vẫn phải thực hiện thủ công (với lò tuynel, khâu xếp gạch mộc lên goòng cũng phải thực hiện thủ công); nhiệt thải chỉ được tận dụng để đốt nóng gạch mộc đã được phơi khô, xếp vào lò ở vùng sấy (đối với lò tunel, vấn đề tận dụng nhiệt thải lò nung để sấy gạch triệt để hơn); tốn năng lượng vận chuyển gạch mộc lên cao để xếp vào lò. Tuy nhiên, khi dỡ gạch ra khỏi lò (theo phương đứng, từ trên xuống) không cần năng lượng. Đối với một số cơ sở sản xuất, do hạn hẹp về vốn đầu tư nên thiết bị, nhà xưởng không đồng bộ, lò thiếu các bộ phận cơ giới. Những khiếm khuyết này đã làm cho chất lượng chuẩn bị gạch kém, mức độ cơ giới hoá kém và môi trường làm việc của công nhân không được cải thiện.
Vì những ưu, nhược điểm như đã phân tích ở trên, lò gạch liên tục kiểu đứng phù hợp với các cơ sở sản xuất thủ công cần chuyển đổi. Trong chuyển đổi nếu gặp khó khăn về vấn đề vốn thì các cơ sở cần đầu tư phân kỳ để đảm bảo có một dây chuyền đồng bộ, hiệu quả. Cũng lưu ý rằng, chất lượng gạch và mức độ cơ giới hoá của dây chuyền phụ thuộc vào tất cả các khâu sản xuất nên dù ở quy mô nào cũng cần đầu tư đồng bộ.
KS Trần Khắc Cần - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Việt Nam
![]() |
Lò đứng nung liên tục được sử dụng tại nhiều nước như Ấn Độ, Nepan, Pakistan, Srilanka... nhưng tại Việt Nam, nó đã được hoàn thiện khá cao. Việc vận hành lò được cơ giới hóa bằng mô tơ điện, hệ thủy lực xe goòng và có hệ điều hành bán tự động đưa gạch ra lò, chi phí nhiên liệu thấp (khoảng 40-70 kg than/1.000 viên gạch, tùy khối lượng viên gạch).
Trong thực tế, có nhiều lò gạch mặc dù làm theo mô hình kiểu đứng nung liên tục nhưng hiệu quả mang lại chưa cao... là do sự đầu tư thiếu đồng bộ, thực hiện quy trình kỹ thuật một cách chưa đầy đủ. Không chỉ với lò liên tục kiểu đứng mà cả lò tuynel nếu đầu tư thiếu đồng bộ cũng không mang lại hiệu quả cao và vẫn gây ô nhiễm môi trường. Như vậy, tên lò như thế nào không thực quan trọng, mà quan trọng là hiệu quả thực tế của lò. Trong tương lai, lò gạch nung liên tục kiểu đứng có thể sẽ được thay thế bằng lò tối ưu hơn. Tuy nhiên, tại thời điểm này và trong một thời gian tới, nó vẫn là mô hình phù hợp với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam . Để quản lý tốt chất lượng các lò gạch cần căn cứ vào Tiêu chuẩn môi trường theo quyết định số 22/2006/QĐ-BTNMT và những quy định trong Quyết định số 121/2008/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020.
KS Phạm Văn Bắc - Phó Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng
![]() |
Chủ trương chung của Nhà nước là tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Lò gạch liên tục kiểu đứng đã chứng minh được tính ưu việt so với lò thủ công, nhưng nó vẫn còn một số hạn chế như: Mẫu mã sản phẩm không phong phú; chỉ nung được gạch với kích cỡ giống nhau; không nung được gạch mỏng, gạch dị hình, ngói... Vì vậy các cơ sở cần xem xét kỹ trước khi tiến hành đầu tư.
Ngày 29.8.2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 121/2008/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020. Trong đó, tại khoản 3, Điều 1, phần liên quan đến gạch đất sét nung có nội dung: - Đầu tư chiều sâu cải tiến công nghệ sản xuất gạch đất sét nung ở tất cả các cơ sở sản xuất hiện có, nhằm giảm tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu và bảo vệ môi trường; - Phát triển các loại gạch có kích thước lớn, độ rỗng cao 50% để tiết kiệm nguyên liệu và nhiên liệu, tăng tính cách âm, cách nhiệt; - Rà soát và tổ chức lại các cơ sở sản xuất gạch thủ công hiện nay để chuyển sang công nghệ lò tuynel, hoặc các công nghệ tiên tiến khác đảm bảo tiêu chuẩn về chất lượng môi trường của Việt Nam; - Phát triển sản xuất gạch nung chất lượng cao có giá trị kinh tế, đặc biệt là các loại gạch xây không trát phục vụ xây dựng trong nước và xuất khẩu; - Khuyến khích việc chuyển đổi nguyên liệu sản xuất từ đất sét trong sản xuất gạch nung sang nguyên liệu đất đồi, đất bãi và phế thải công nghiệp (đá bìa trong khai thác than, đá sít than...). Điều 4 của Quyết định số 121 quy định: Quyết định 121/2008/QĐ-TTg thay thế Quyết định số 115/2001/QĐ-TTg ngày 1.8.2001 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2010 (trong đó quyđịnh xoá bỏ việc sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công ở ven các đô thị trước năm 2005, ở các vùng khác trước năm 2010) và Quyết định số 133/2004/QĐ-TTg ngày 20.7.2004 sửa đổi một số điều khoản trong Quyết định số 115/2001/QĐ-TTg ngày 1.8.2001. |











