Một số vấn đề sử dụng nhân lực khoa học - công nghệ ở vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ hiện nay
1. Một số nét khái quát về nhân lực khoa học - công nghệ vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ hiện nay
Trọng điểm kinh tế miền Trung là một trong những khu vực gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển do điều kiện tự nhiên, xã hội không mấy thuận lợi. Để xây dựng và phát triển, các tỉnh trong khu vực đang cần một sự nỗ lực và quyết tâm rất lớn từ những bàn tay và khối óc của người lao động, nhất là lực lượng cán bộ khoa học nói chung và đội ngũ những nhà khoa học đang làm việc ở các cơ quan nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ nói riêng. Song, vì nhiều lý do khác nhau, đội ngũ những nơi làm khoa học - công nghệ ở đây chưa thểhiện hết được vai trò và vị trí của mình đối với sự phát triển của khu vực, một trong những nguyên nhân chính là do năng lực, trình độ của đội ngũ này còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ ở khu vực thời gian qua còn nhiều bất cập, chưa đủ sức kích thích một cách đầy đủ tính sáng tạo và tinh thần hết mình vì khoa học, vì sự phát triển chung. Chính vì vậy, nhiều năm qua, mặc dù có sự đầu tư nhất định từ phía nhà nước, nhưng những đóng góp của đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của khu vực còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng sự mong mỏi của nhân dân và sự kỳ vọng của lãnh đạo các địa phương. Điều đó đang đặt ra nhiều vấn đề trong việc tìm kiếm các biện pháp, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động và sự đóng góp của đội ngũ nhân lực khoa học đối với sự phát triển của khu vực cũng như cả nước. Theo đánh giá của các nhà quản lý khoa học - công nghệ cho biết, hiện nay đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ làm trên lĩnh vực nghiên cứu triển khai của vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ mới phát huy chủ yếu trong việc du nhập và triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu đã có được từ các vùng miền khác, còn bản thân tự nghiên cứu, phát minh thì rất hạn chế. Điều này cho thấy, trong đầu tư cho nghiên cứu triển khai ở khu vực còn thiếu một nhân tố có tính động lực, chưa tạo ra được một nền tảng có tính căn bản để trong việc tạo dựng những cơ sở có đủ sức khuyến khích cán bộ khoa học - công nghệ mày mò tìm kiếm, khám phá.
Có thể khái quát về tình hình nhân lực khoa học - công nghệ của vùng trọng điểm kinh tế miền Trung qua một số mặt chính sau:
Thứ nhất, thiếu đồng bộ
Qua khảo sát cho thấy, các chuyên ngành kinh tế chiếm tỷ lệ xấp xỉ 35%, các chuyên ngành khoa học - xã hội và nhân văn 29%, các chuyên ngành khoa học - kỹ thuật 25%, bác sĩ - dược sĩ 6%, các ngành thủy sản - nông nghiệp - lâm nghiệp 2%.Với cơ cấu các ngành, lĩnh vực chuyên môn của đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ như vậy, việc tổ chức nghiên cứu triển khai các công trình khoa học đáp ứng yêu cầu cấp thiết của đời sống trong vùng rất khó khăn. Chính đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho khu vực đến nay vẫn là nơi du nhập các kết quả nghiên cứu, còn việc sáng tạo ra rất hạn chế.
Thứ hai, thiếu chuyên gia đầu ngành
Đây là một thực tế ảnh hưởng rất lớn đến việc nghiên cứu sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học. Hầu như ở tất cả các ngành đều nằm trong tình trạng thiếu một thủ lĩnh khoa học thực sự, thiếu các công trình có thể đề ra các mục tiêu, các kế hoạch, chiến lược nghiên cứu triển khai một cách sáng tạo, giúp cho đội ngũ cán bộ khoa học nhanh chóng phát triển.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực có trình độ đào tạo đại học hiện nay nhìn chung thấp, rất khó đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội
Thứ tư, việc sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ ngày càng bộc lộ nhiều mặt bất hợp lý
Sự bất hợp lý thể hiện rõ nhất là các địa phương thường đưa ra các chính sách "chiêu hiền" nhằm lôi kéo chất xám từ các địa phương khác, trong khi đó, bản thân đội ngũ cán bộ khoa học đã và đang công tác lại chưa có những chính sách “đãi sĩ” một cách phù hợp. Chính điều đó đã làm cho việc thực hiện các chính sách thu hút chất xám từ bên ngoài không mang lại kết quả. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ khi nào có những chính sách đãi ngộ hợp lý, có đủ sức giữ được nhân tài thì khi đó sẽ thu hút được nhân tài...
Thực tế vừa nêu đang làm cho khả năng đóng góp của nhân lực khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của các địa phương trong vùng chưa được như mong muốn, vì vậy cần có những giải pháp mang tính căn cơ, nhằm phá vỡ những trì trệ tồn tại lâu nay, để giải phóng năng lực nghiên cứu cho đội ngũ cán bộ khoa học.
2. Một số giải pháp
Để đội ngũ những người làm công tác khoa học - công nghệ ở vùng có thể phát huy tối đa năng lực nghiên cứu, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng, cần giải quyết tốt những vấn đề sau.
2. 1. Không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo
Chất lượng của đội ngũ cán bộ khoa học làm công tác khoa học phần lớn phụ thuộc vào chất lượng và trường đào tạo của các cơ sở đào tạo, đây là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Nếu đào tạo không thích hợp với sử dụng sẽ tốn kém kinh phí và thời gian, do vậy, cần phải xây dựng một nội dung chương trình đào tạo sao cho người học ra trường có thể tiếp cận công việc được ngay. Cần bổ sung vào chương trình những kiến thức mới, những phần học mang tính thực hành để khi ra trường có thể vận dụng ngay được kiến thức đào tạo.
Ở khu vực trọng điểm kinh tế miền Trung hiện có hơn 30 trường đại học, cao đẳng, trong đó riêng Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế và Đại học Quy Nhơn số cán bộ khoa học có trình độ từ thạc sĩ trở lên đã có đến 2.256 người, trong đó trình độ tiến sĩ khoa học và tiến sĩ có 508 người, chiếm trên 80% tổng số cán bộ khoa học có trình độ thạc sĩ trở lên của khu vực.
Với một lực lượng cán bộ khoa học hùng hậu hoạt động trên lĩnh vực nghiên cứu - đào tạo như vậy, các trường đại học, cao đẳng ở đây đã đào tạo cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cũng như cả nước hàng năm hàng chục vạn lao động có trình độ cao đẳng - đại học, hàng trăm cán bộ có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Song do sự bất cập về nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, số lượng những người tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học ngày càng nhiều qua hàng năm mới chỉ phản ánh được quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng, chứ chưa phản ánh được chất lượng đào tạo, nhất là việc gắn với nhu cầu phát triển nền kinh tế - xã hội (bảng 1).
Bảng 1: Số sinh viên đại học - cao đẳng các tỉnh trọng điểm kinh tế miền Trung các năm 2007, 2008
ĐVT: sinh viên
Toàn vùng | Thừa Thiên - Huế | Đà Nẵng | Quảng Nam | Quảng Ngãi | Bình Định | |
2007 | 213.687 | 97.154 | 79.458 | 3.771 | 5.553 | 27.751 |
2008 | 166.948 | 52.141 | 82.229 | 6.984 | 5.769 | 19.825 |
Thực tế cho thấy, cách đào tạo có tính dàn trải, nặng về lý thuyết, thiếu thực hành đã làm cho đại bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp đều rất khó tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn của mình. Qua các phiên giao dịch việc làm ở Đà Nẵng, Huế, Quảng Nam thời gian qua cho thấy, nhu cầu tuyển dụng lao động có trình độ cao của các doanh nghiệp rất lớn, số lao động tham gia giao dịch đông, nhưng tuyển dụng lại rất khó khăn. Có một công ty cần tuyển 100 nhân viên thì chỉ tuyển được có 1, có doanh nghiệp cần tuyển 10 cán bộ làm quản lý nhưng không thể tuyển dụng được một người nào…, dù rằng tất cả các ứng cử viên tuyển dụng đều có đầy đủ bằng cấp chính quy tập trung, trong đó có nhiều người tốt nghiệp đạt loại khá trở lên.
Bảng 2. Tình hình tuyển dụng lao động có trình độ cao đẳng, đại học qua một số phiên giao dịch việc làm thành phố Đà Nẵng năm 2010
Đơn vi tính: người
Nhu cầu tuyển dụng và lao động được tuyển | |||
Trình độ đại học | Trình độ cao đẳng | ||
Nhu cầu | Được tuyển | Nhu cầu | Được tuyển |
579 | 323 | 317 | 187 |
Tìm hiểu nguyên nhân tình hình trên cho thấy, do chương trình đào tạo đại học nặng về lý thuyết, làm cho người học thiếu kinh nghiệm thực tiễn, lúng túng xử lý vấn đề trong thực tế, thiếu kỹ năng tác nghiệp trực tiếp. Nhưng thực tế cũng cho thấy, phần lớn sinh viên miền Trung vào Nam làm việc tốt, có tiếng tăm bởi trong đó nhu cầu công việc nhiều, môi trường làm việc khiến sinh viên có “cửa” phát triển, cơ hội thăng tiến rõ rệt, sự cạnh tranh và đào thải gay gắt buộc họ phải năng động hơn. Sinh viên miền Trung ngoại ngữ yếu bởi họ ít có môi trường cọ xát, còn thầy thì ít tiếp cận phương pháp giảng dạy mới, tài liệu hiện đại, thực tế. Chưa có tiếng nói chung giữa nhà trường và cơ sở sản xuất trong cung - cầu đào tạo nhân lực.
Thực tế đó đòi hỏi phải đổi mới cách thức và phương thức đào tạo để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Nếu không, các trường đại học, cao đẳng mãi chỉ là nơi cấp bằng đúng hơn là nơi đào tạo ra những lao động, những nhà quản lý, những nhà khoa học có trình độ cao cho tương lai khu vực và đất nước.
Cùng với việc đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo ở các trường đại học, các tỉnh, thành phố, các trung tâm nghiên cứu cần phải có chiến lược đào tạo cho tương lai. Đây chính là cơ sở cho việc phát hiện và tuyển chọn những người tài giỏi, có năng lực để sử dụng chất xám trong công việc nghiên cứu, sáng tạo. Vấn đề đặc biệt quan trọng ở đây là các địa phương cần kết hợp với các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu nhằm phát hiện các sinh viên giỏi ngay từ khi còn đang học trong nhà trường để có kế hoạch, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và sử dụng. Hàng năm có kế hoạch bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ khoa học - công nghệ, đặc biệt là số cán bộ đang công tác. Tiến cử những người tài giỏi đi đào tạo ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
Để nâng cao chất lượng dội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, cần phải chú ý đến đào tạo trên chuẩn - cũng là một hình thức đào tạo lại, phải chấn chỉnh lại việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ cho đúng với mục tiêu của hệ thống đào tạo sau đại học, tức là chủ yếu đào tạo những người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các trường đại học và viện nghiên cứu. Nói cách khác, việc đào tạo sau đại học chỉ nên đặt ra chủ yếu cho những người làm công tác trên các đơn vị khoa học, không nhất thiết phải đặt ra cho cán bộ đã được phân công làm công tác quản lý. Việc đào tạo lại, hoặc thường xuyên bồi dưỡng kiến thì chuyên môn sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ khoa học có điều kiện thường xuyên cập nhật, bổ sung những kiến thức mới trên cả hai lĩnh vực lý thuyết và thực tiễn, đây là một nhân tố góp phần nâng cao chất lượng cho đội ngũ nhân lực khoa học hiệu quả nhất.
Cần phải nhận thức rằng, bản thân vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ không đủ những lợi thế cần thiết để quy tụ các nhà khoa học tài năng đến cống hiến, do đó cần phải tập trung cho công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ này ở ngay khu vực là xác đáng nhất. Chỉ có sự phát triển bằng chính những con người của miền Trung mới có thể tạo ra được một sự phát triển bền vững.
2.2. Chú trọng hơn nữa đào tạo cán bộ khoa học đầu đàn, nhất là các ngành khoa họccơ bản
Sự đột phá trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ phải nhằm trước hết vào các cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ. Do đó, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn có tác dụng là đầu tàu thúc đẩy khoa học - công nghệ nói chung, nhân lực khoa học - công nghệ nói riêng của khu vực phát triển.
Hiện các đại học khu vực là các đại học đa ngành, trong quá trình phát triển, quy mô đào tạo mới chỉ hướng đến thu hút sinh viên, số lượng sinh viên tăng rất nhanh, trong khi đó, một số ngành khoa học cơ bản thì lại không đủ năng lực mở rộng. Nguyên nhân của tình trạng này là do các đại học rất thiếu những nhà khoa học có uy tín trên lĩnh vực này. Thiếu chuyên gia các ngành khoa học cơ bản hoạt động trên trên lĩnh vực đào tạo đã làm cho công tác tạo nguồn cán bộ khoa học - công nghệ nghiên cứu cơ bản của các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thiếu trầm trọng. Do vậy, việc hoạch định chiến lược phát triển khoa học - công nghệ nói chung, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ nói riêng của các tỉnh ở khu vực thường rất khó khăn .Phát triển đội ngũ những cán bộ khoa học đầu đàn là tạo đầu tàu cho việc phát triển nhân lực khoa học. Đây là đội ngũ có thể vạch ra chiến lược khoa học - công nghệ phù hợp với diều kiện phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
Bên cạnh đó, chưa có một chính sách đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ một cách thỏa đáng, làm cho sự di chuyển nhân lực khoa học - công nghệ từ các cơ quan nghiên cứu triển khai sang các doanh nghiệp ngày một nhiều hơn, để tìm kiếm các nguồn thu nhập cao hơn. Thời gian gần dây, một số địa phương đề ra chủ trương “học vị" hóa các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cũng đã tác động không tốt đến việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ trên lĩnh vực nghiên cứu triển khai. Tình trạng đó làm cho các nguồn lực đầu tư cho khoa học - công nghệ vẫn rất thấp bị dàn trải, hiệu quả đầu tư sẽ khó như mong muốn.
Đấy là những vấn đề cần phải được khắc phục mới có thể xây dựng và phát triển một đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ đáp ứng đặc yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dang diễn ra.
2.3. Hoàn thiện chính sách sử dụng cán bộ khoa học công nghệ
Khác với tuyển dụng nhân lực làm việc ở các ngành nghề khác, việc tuyển dụng nhân lực khoa học - công nghệ làm việc ở các đơn vị nghiên cứu triển khai cần có những quy định và tiêu chí riêng. Những quy định và tiêu chí đó phải được đi kèm với các chính sách đãi ngộ thích hợp, nhằm làm sao có thể thu hút được những nhân tài thực sự.
Việc tuyển dụng hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, còn đồng nhất cách thi tuyển làm công tác nghiên cứu với công tác hành chính. Hơn nữa, chế độ biên chế suốt đời của cán bộ và nhân viên nhà nước và định biên cứng trong các cơ quan nhà nước đã làm giảm dần chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học, làm cho người ta có cảm giác "chắc chân" tại vị trí làm việc, không lo bị thôi việc, định biên cứng trong cơ quan đã không tạo điều kiện đến bổ sung những người có năng lực cần thiết phù hợp với công việc. Phát triển theo chiều hướng đó, chất lượng, kỷ luật lao động trong các cơ quan ngày càng sút kém.
Trong bố trí nhân lực ở các đơn vị nghiên cứu triển khai, các cơ quan phải đánh giá lại cán bộ để tiến hành bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ khoa học cho phù hợp với sở trường, chuyên môn được đào tạo. Đồng thời phải nhanh chóng tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đối với những trường hợp trình độ không tương xứng với yêu cầu công tác và các trường hơn bố trí trái ngành, trái nghề nhưng không thể thuyên chuyển, sắp xếp lại được để họ có điều kiện phát huy tốt hơn năng lực của mình. Phải bố trí đúng người, đúng việc mới phát huy được năng lực cán bộ, bởi một số người có năng lực nếu không được bố trí đúng việc hoặc không giao nhiệm vụ đúng tầm thì họ thường đi tìm nơi khác hoặc để làm việc.
Trong một cơ quan nghiên cứu triển khai, nếu cán bộ quản lý không đáp ứng được trọng trách thì sẽ hạn chế rất nhiều đến hiệu quả hoạt động của cơ quan đó. Đối với các cơ quan nghiên cứu triển khai, nghiên cứu cơ bản, ngoài năng lực khoa học, người đứng đầu rất cần có năng lực quản lý và khả năng hiểu biết về thị trường, vì tiếng nói của họ là quyết định hướng nghiên cứu của cơ quan và hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước.
Một đặc điểm quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của đội ngũ cán bộ khoa học là mức thu nhập thấp. Cuộc sống của bản thân cũng như gia đình chủ yếu dựa vào lương, lương là nguồn thu nhập chính mà lại thấp, vì thế nhiều cán bộ buộc phải làm thêm nhiều nghề khác để kiếm sống. Lương và thu nhập thấp nên dẫn đến tình trạng không thu nạp được những sinh viên giỏi ở lại trường đại học hay về một cơ quan nghiên cứu, dù rằng dành một biên chế ở các cơ quan nghiên cứu hiện nay không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều sinh viên giỏi từ chối về cơ quan nghiên cứu mà mang tấm bằng giỏi cộng với việc dùi mài ngoại ngữ, tin học để ra làm ở các công ty liên doanh hoặc công ty nước ngoài. Do đó, cần phải có chính sách trả lương hợp lý. Sự bất hợp lý của thang, bậc lương của Nhà nước ta hiện nay đã không tạo điều kiện cho nhiều nhân tài xuất hiện và trưởng thành trong môi trường hoạt động nghiên cứu triển khai. Do vậy, các tỉnh trọng điểm kinh tế miền Trung cần có những biện pháp hỗ trợ đặc biệt nhằm vừa thu hút tài năng, vừa đào tạo một đội ngũ cán bộ khoa học hoạt động ở lĩnh vực nghiên cứu triển khai ngày một nhiều về số lượng, vừa mạnh về chất lượng.
2.4. Đổi mới công tác quán lý hoạt động khoa học- công nghệ
Các cơ quan nghiên cứu khoa học - công nghệ là những nơi phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những tài năng thực sự cho đất nước. Công tác quản lý khoa học ở các đơn vị này cần phải có những biện pháp linh động, nhạy bén, sáng tạo, không thể quản lý theo kiểu hành chính như các đơn vị sự nghiệp khác.
Cần đổi mới công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học theo hướng chỉ giao cho các tổ chức cá nhân có năng lực nghiên cứu thực sự đảm đương các đề tài lớn, quan trọng. Quy định rõ trách nhiệm về mặt kinh tế trong hoạch định, thẩm định dự án và ra quyết định đầu tư ở các cấp, các ngành trong các dự án về hoạt động khoa học và công nghệ để thưởng, phạt nghiêm minh. Có những quy định chặt chẽ hơn nữa trong đòi hỏi về chất lượng các sản phẩm khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.
Nhanh chóng đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là trên lĩnh vực nghiên cứu triển khai, nhằm tạo điều kiện phát huy tối đa tài năng của nhân lực khoa học làm công tác nghiên cứu triển khai. Điều này đòi hỏi phải gấp rút bổ sung hoàn chỉnh các đề án về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các sở khoa học và công nghệ cho thích hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kiện toàn tổ chức và nâng cao trình độ cán bộ quản lý. Nên hình thành bộ phận quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và môi trương cấp huyện, thị xã. Bên cạnh đó, cần bổ sung và hoàn thiện quy chế tổ chức và hoạt động của hội đồng khoa học và công nghệ ở các tỉnh, từng ngành, huyện, thị xã thuộc các tỉnh.
Củng cố, tăng cường hoạt động của các hội khoa học và kỹ thuật chuyên ngành của các tỉnh, thành phố, phát huy vai trò chính trị - xã hội của liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật trong việc phổ biến và ứng dụng kiến thức khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống, trong nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ và bảo vệ môi trường cũng như trong công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội về khoa học và công nghệ cũng như phát triển kinh tế - xã hội.
Quản lý chặt chẽ công tác giám định kết quả hoạt động nghiên cứu triển khai, để phát huy tính sáng tạo của đội ngũ nhân lực khoa học này. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra khoa học, công nghệ để buộc các nhà khoa học tham gia các chương trình nghiên cứu triển khai phải nâng cao ý thúc, trách nhiệm đối với nhiệm vụ nghiên cứu được giao, để trên cơ sở đó không ngừng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, đồng thời giúp cho cơ quan quản lý có thể sử dụng một cách hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học của mình.
Để đào tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ có đầy đủ những tố chất cần thiết phục vụ cho sự phát triển và sử dụng hiệu quả lực lượng này, đòi hỏi các cơ quan quản lý khoa học - công nghệ phải có những cơ chế đào tạo sử dụng phù hợp, nhất là cơ chế đó phải thực sự quan tâm đến đời sống, thu nhập của cán bộ khoa học - công nghệ .Bên cạnh đó, nhằm giúp cho các cơ quan quản lý khoa học - công nghệ có thể hình thành nên những cơ chế đãi ngộ phù hợp, Nhà nước cần có những chính sách đãi ngộ phù hợp, nhất là đối với những chuyên gia đầu đàn, những nhà khoa học có tài năng. Cần phân bổ nguồn lực còn hạn hẹp để đầu tư một cách tập trung cho những công trình nghiên cứu thực sự mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, có như thế mới có thể tạo ra một đội ngũ những người làm công tác khoa học có nhiệt huyết và tài năng thực sự.
Đầu tư để phát triển đội ngũ cán bộ khoa học là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển. Đây là sự đầu tư có hiệu quả nhất nếu biết chọn đúng mục tiêu và phương pháp đầu tư.








