Một số vấn đề liên quan đến việc xây dựng và công bố chuẩn đầu ra ở các trường đại học nước ta hiện nay
1. Những lợi ích khi xây dựng và công bố chuẩn đầu ra (CĐR)
Hiện nay, theo yêu cầu của Bộ GD-ĐT, việc xây dựng và công bố CĐR đang trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều cơ sở đào tạo (ĐT) ở Việt Nam . Bởi vậy, khi một trường đại học xây dựng và công bố CĐR sẽ mang lại lợi ích cho nhiều phía: 1) Với nhà trường:việc xây dựng CĐR cho các chương trình ĐT nhằm bảo đảm sinh viên (SV) tốt nghiệp có được những kiến thức,kĩ năng (KN), năng lực phù hợp với lĩnh vực được ĐT. CĐR xác nhận kết quả mà người học cần đạt được sau quá trình học tập ở trường (nhằm khẳng định chất lượng sản phẩm ĐT của trường, đáp ứng được nhu cầu của xã hội). Mặt khác, đây cũng là những phương hướng thiết kế các hoạt động dạy - học đảm bảo chất lượng sản phẩm ĐT, góp phần thực hiện chủ trương "ba công khai" của Bộ GD-ĐT. Thêm vào đó, công bố CĐR còn là lợi thế khi các trường muốn tăng chỉ tiêu ĐT; 2) Đối với GV:giúp GV tập trung vào những KN và kiến thức mà họ mong muốn SV đạt được; 3) Đối với người học:Giúp người học có được thông tin về ngành học mà họ quan tâm cũng như những mong đợi của xã hội để phấn đấu trong học tập và rèn luyện bản thân; 4) Đối với nhà tuyển dụng:Cung cấp thông tin cho nhà tuyển dụng về những kiến thức và các KN của SV sau khi tốt nghiệp; 5) Đối với Bộ GD-ĐT:CRDDR là một trong những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng ĐT của từng cơ sở ĐT và toàn ngành, là cam kết của các cơ sở giáo dục đại học về chất lượng ĐT với xã hội cũng như về năng lực của người học sau khi tốt nghiệp.
2. Một số khó khăn thường gặp khi xây dựng và công bố CĐR
1) Đáp ứng các tiêu chí phụ đa dạng của các nhà tuyển dụng
Khi xây dựng CĐR, các trường phải căn cứ vào mục tiêu ĐT của từng ngành nghề, yêu cầu của xã hội về ngành nghề đó để xây dựng "chuẩn" sao cho SV khi ra trường có thể đáp ứng yêu cầu công việc của thực tế. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu thực tế là công việc thì các doanh nghiệp sẽ là đơn vị nắm rõ nhất những tố chất cần có của một ứng viên. Do đó, vai trò của doanh nghiệp trong việc xây dựng "CĐR" là không thể thiếu. Nhưng những yêu cầu đa dạng của các doanh nghiệp khiến các trường (dù rất cố gắng) cũng khó đáp ứng đầy đủ được. Một khó khăn khác là xã hội hiện đại với công nghệ thay đổi nhanh chóng, do vậy đòi hỏi "đầu ra" cũng không được lạc hậu với yêu cầu của nhà tuyển dụng; với nhiều chuyên ngành đòi hỏi KN khác nhau thì "chuẩn" lại khác nhau, thậm chí, cùng một chuyên ngành nhưng các trường khác nhau có "CĐR" không giống nhau. Thực tế cho thấy, nếu dựa trên website mà các trường đã công bố thì vẫn chưa có sự thống nhất chung về chuẩn trong từng ngành cụ thể…
2) Mâu thuẫn giữa năng lực của nhà trường và yêu cầu của xã hội
Thông thường, mỗi trường khi đã xây dựng được "chuẩn" thì phải công bố "chuẩn". Tuy nhiên, đây là điều khó khăn đối với các trường. Vì đã công bố thì phải thực hiện. Nhưng nếu công bố CĐR đúng với thực lực ĐT của trường có thể xã hội không chấp nhận vì cho rằng những chuẩn mà nhà trường đề ra quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu xã hội; ngược lại, nếu đưa ra những tiêu chuẩn quá cao mà không thể thực hiện được thì không đúng cam kết đã hứa.
Hiện nay, hầu hết các trường đại học ở nước ta đang gặp 2 trở ngại là khả năng ngoại ngữ và thực hành của SV. Do đặc thù của một nước nông nghiệp nên đa số SV xuất thân từ các vùng miền khác nhau (đặc biệt chiếm đa số là SV nông thôn). Nếu căn cứ theo CĐR để xây dựng chuẩn ngoại ngữ TOEIC (một chứng chỉ về trình độ ngoại ngữ) cho SV ra trường ở mức 350 (chỉ là mức bình thường, chấp nhận được), nhà trường cần phải sắp xếp từ 250-300 tiết dạy. Tuy nhiên, nếu dành quá nhiều thời gian cho môn ngoại ngữ thì thời lượng dành cho các môn khác sẽ bị thu hẹp. Một khó khăn khác là KN thực hành của SV nhìn chung rất thấp. GV có thể dạy về kiến thức nhưng KN thì phải gắn với điều kiện cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, thực hành, trong khi nhiều trường không có cơ sở vật chất hoặc có nhưng không đáp ứng được yêu cầu.
3. Một số điểm cần chú ý trong quá trình xây dựng và công bố CĐR
1) Cơ sở pháp lí:Tùy thuộc vào phương thức ĐT, các trường sẽ chọn quyết định của Bộ GD-ĐT ban hành phù hợp. Đối với các trường ĐT theo học chế tín chỉ thì dựa trên cơ sở Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2007 của Bộ GD-ĐT về Quy chế ĐT ĐH và CĐ hệ chính quy theo Quyết định số 25/2006/QĐ-BGD-ĐT ban hành ngày 26/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT; Công văn số 2196/BGD-ĐT-GDĐH ngày 22/4/2010 của Bộ GD-ĐT về hướng dẫn xây dựng và công bố CĐR ngành ĐT và căn cứ vào sứ mạng, mục tiêu GD-ĐT và định hướng phát triển của trường trong tương lai.
2) Các tiêu chí đánh giá chất lượng SV theo CĐR
a) Về mặt kiến thức: có kiến thức chuyên môn đủ sâu, rộng để hoạt động tốt trong lĩnh vực của mình, có khả năng áp dụng kiến thức đã học vào hoạt động thực tế;
b) Về mặt KN: Năng lực chuyên môn và năng lực thực hành nghề nghiệp: nắm vững các nguyên lí, nguyên tắc, quy luật cơ bản của lĩnh vực chuyên môn trong tương lai; KN xử lí tình huống, giải quyết vấn đề: có năng lực sáng tạo để thực thi các giải pháp cho một vấn đề thực tiễn, giám đề xuất những giải pháp khác biệt so với các giải pháp truyền thống; KN giao tiếp: ứng xử khéo léo, khôn ngoan trong đàm phán, chuẩn mực trong phát ngôn, thể hiện văn hóa, văn minh mọi nơi, mọi lúc; KN làm việc theo nhóm: luôn biểu lộ thái độ gần gũi, thân thiện, hòa đồng với tập thể, biết xây dựng khối đại đoàn kết trong tập thể; có khả năng diễn đạt ý tưởng gọn gàng, trong sáng, khúc chiết; có năng lực tiếp thu, phân tích và tổng hợp ý kiến; biết cách gợi ý để tranh thủ ý kiến của đồng nghiệp; sử dụng thành thạo các công cụ làm việc từ xa theo nhóm; Khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học: Khả năng đọc tài liệu, viết báo cáo, trao đổi bằng tiếng nước ngoài chuẩn mực; biết sử dụng thành thạo tin học để thao tác chuyên môn.
c) Về mặt thái độ(bao gồm phẩm chất đạo đức, ý thức nghề nghiệp, trách nhiệm công dân): biểu hiện lòng yêu nước, yêu đồng bào, tinh thần tự hào dân tộc; biết vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của nhà nước vào tình hình công tác cụ thể; có lí tưởng, hoài bão tốt đẹp, không ngừng phấn đấu học tập, rèn luyện để phục vụ Tổ quốc; biết đặt lợi ích tập thể trên lợi ích cá nhân; có ý thức nghề nghiệp đúng đắn, trung thực trong khoa học; nhận thức đúng đắn về các giá trị xã hội và có thái độ ứng xử phù hợp với các giá trị đó; có tinh thần vị tha, thương yêu mọi người; có ý thức bảo vệ môi trường và cải thiện cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn; khả năng cập nhật kiến thức, sáng tạo trong công việc: có năng lực xác định được những vấn đề chuyên môn cần nghiên cứu; biết tổ chức, tìm kiếm thông tin phục vụ hoạt động chuyên môn; có tính cần cù, nhẫn nại, tự tin khi thực hiện nghiên cứu khoa học.
d) Vị trí làm việc sau khi ra trường:có khả năng tìm kiếm và đảm nhận các công việc trong ngành đã được ĐT hoặc các ngành liên quan phù hợp với CĐR.
đ) Khả năng học tập, nâng cao trình độ sau khi ra trường:có khả năng tự học và học tập suốt đời để không ngừng nâng cao tri thức; biết tự đánh giá năng lực, có phương pháp, chiến lược học tập phù hợp với bản thân; chủ động, linh hoạt thích ứng với những thay đổi của công việc và cuộc sống.
STT | Nhóm tiêu chí | Giải pháp thực hiện | Đánh giá | Điểm tối đa |
1 | Kiến thức chuyên môn, năng lực nghề nghiệp | - Phương pháp giảng dạy tiên tiến. - Chương trình ĐT được kiểm định chất lượng. - Đảm bảo đúng tỉ lệ SV/GV; số lượng GV/lớp. - Mỗi nhóm SV có một GV cố vấn học tập, nghiên cứu. - Tăng cường số lượng các môn học tự chọn. - Tăng cường thực hành, thực tập. - Mời cán bộ thực tiễn báo cáo chuyên đề… | - Kết quả học tập, tốt nghiệp tại trường. - Kết quả đánh giá của doanh nghiệp về thực tập và các chuyên đề thực tiễn. - Kết quả phỏng vấn xin việc sau khi tốt nghiệp. | 50 |
2 | Kĩ năng | - Nắm vững công nghệ thông tin. - Có khả năng giảng dạy các môn chuyên ngành bằng ngoại ngữ theo chuẩn quốc tế. - Thực hiện các bài tập, đồ án, đề tài tốt nghiệp theo nhóm. - Hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp để nâng cao chất lượng các đợt thực tập. - Mở rộng giao lưu giữa SV của trường với bên ngoài. - Tập dượt khả năng quản lí, chỉ huy thông qua việc tổ chức các nhóm nghiên cứu, các nhóm học tập, các tổ chức đoàn thể… | - Trình độ ngoại ngữ được đánh giá bằng các chuẩn quốc tế. - Khả năng sử dụng thành thạo công nghệ thông tin. - Khả năng giao tiếp và xử lí vấn đề nhanh, có hiệu quả. - Kết quả hoạt động của tổ, nhóm chuyên môn và đoàn thể. | 20 |
3 | Thái độ | - Giáo dục công tác chính trị, ý thức công dân. - Tham gia tích cực hoạt động Đoàn thanh niên, Hội SV; các hoạt động xã hội… | - Điểm giáo dục chính trị đầu năm. - Nhận xét của các tổ chức đoàn thể. | 15 |
4 | Năng lực tự học, tự nghiên cứu và tiềm năng phát triển | - Có khả năng thiết kế lại các giáo trình, mỗi môn học phải nêu rõ những vấn đề mang tính nguyên lí, quy luật tổng quát trước, sau đó mới đến phần ứng dụng; - Rèn luyện KN nghiên cứu khoa học ngay từ những năm đầu tiên. - Mỗi SV có quyền lựa chọn những vấn đề nghiên cứu phù hợp với năng lực và sở thích của bản thân dưới sự hướng dẫn của GV. - Tổ chức thảo luận nhóm, thuyết trình, báo cáo đề tài. - Cùng GV giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra trong sản xuất và đời sống…. | Kết quả nghiên cứu khoa học, các cuộc thi sáng tạo SV. - Đánh giá của GV hướng dẫn về năng lực nghiên cứu phát triển. | 15 |
Tổng số điểm đánh giá đầu ra SV: 100 | ||||
3) Các phương pháp đánh giá tiêu chí của CĐR
Khi có các tiêu chí của CĐR, các nhà quản lí giáo dục phải dự kiến được những phương pháp đánh giá phù hợp. Chẳng hạn, các tiêu chí nêu trên (gồm 10 chuẩn) có thể gộp thành 4 nhóm (với các giải pháp thực hiện và mức độ đánh giá) như sau:
Xây dựng CĐR là một việc làm mới, dù công việc này còn nhiều khó khăn nhưng đã đáp ứng yêu cầu của công tác ĐT nguồn nhân lực, sự mong chờ của doanh nghiệp, xã hội. CĐR còn là cơ hội để các trường tự khẳng định chất lượng GD-ĐT trước yêu càu ngày càng cao của xã hội và quá trình hội nhập quốc tế. cùng với chủ trương "ba công khai", xây dựng và công bố CĐR sẽ là "kênh" thông tin quan trọng làm cho giáo dục đại học Việt Nam ngày càng gần hơn với trình độ giáo dục đại học của khu vực và thế giới.








