Một số kỹ thuật chăn nuôi ở Nhật Bản trong thập kỷ tới
Để đáp ứng được nhu cầu đó, Nhật Bản chủ trương đẩy mạnh việc phát triển chăn nuôi. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển chăn nuôi, Nhật Bản gặp phải các thách thức sau:
- Giá thức ăn ngày càng cao, đặc biệt là thức ăn nhập khẩu.
- Ô nhiễm môi trường
- Dịch bệnh vật nuôi
Muốn vượt qua các thách thức này, Nhật Bản dự kiến tiến hành các biện pháp kỹ thuật sau:
1. Thức ăn
Trong thời gian tới, Nhật Bản dự kiến tăng cường sản xuất thức ăn ở trong nước, giảm nhập khẩu thức ăn. Các biện pháp để thực hiện chủ trương này:
- Trồng ngô: Đẩy mạnh việc trồng ngô ở các vùng cao. Về kỹ thuật cần tổ chức việc tiêu nước ở những nơi trồng ngô, đồng thời lai tạo giống ngô chịu úng bằng cách tạp giao ngô (Zea Mays L.) với teosinte (Z.mays ssp. Huehutenangensis).
- Sử dụng cây lúa: Trong 40 năm qua, tập quán tiêu thụ lương thực, thực phẩm của Nhật Bản có những thay đổi: tăng tiêu thụ sữa và thịt, giảm tiêu thụ gạo. Do đó, Nhật Bản đã chuyển việc trồng lúa lấy gạo sang trồng lúa lấy cây làm thức ăn cho vật nuôi.
Từ năm 2000, Nhật Bản đã có dự án quốc gia sử dụng cây lúa làm thức ăn cho vật nuôi. Hiện nay Nhật Bản đã có 12 vùng trồng lúa làm thức ăn vật nuôi trên khắp đất nước (trừ vùng Hokkaido ở phía Bắc Nhật Bản) với tổng diện tích là 5.000 ha. Cây lúa được ủ tươi (Whole crop rice silage – WCRS) để nuôi bò sữa và bò thịt.
Sản lượng lúa cây ở giai đoạn già (vàng) là 12-15 tấn vật chất khô/ha. Giá trị dinh dướng của WCRS là: 50-55%TDN và 5 -7% protein thô (tương đương với lúa mạch khô của Ý ở giai đoạn ra hoa). WCRS giàu viatmin E và làm cho thịt có màu tươi, mỡ không bị ôxy hoá.
Nhật Bản đã chế tạo được máy để gieo trồng và thu hoạch lúa làm thức ăn vật nuôi. Đồng thời Nhật Bản cũng đã có chế phẩm vi sinh CHIKUSOU 1 để ủ với cây lúa (vì cây lúa có ít vi khuẩn axit lactic và có độ ẩm cao).
- Sử dụng phụ phế phẩm:
Ở Nhật Bản đã sử dụng 3 phương pháp để chế biến phụ phế phẩm: làm khô, ủ tươi và làm thành thức ăn lỏng (liquid feeding).
Gần đây phương pháp chế biến phụ phế phẩm thành thức ăn lỏng được Nhật Bản quan tâm.
Khi chế biến phụ phế phẩm thành thức ăn lỏng cần phải đầu tư trang thiết bị, nhưng phương pháp này có các ưu điểm sau: tận dụng dễ dàng các loại phụ phế phẩm, bảo quản được lâu dài, giảm hao hụt khi cho ăn, tăng lượng thức ăn ăn được, cải thiện được năng suất vật nuôi, cải thiện được môi trường...
Sử dụng thức ăn lỏng sẽ làm tăng vi khuẩn axit lactic, làm giảm vi sinh vật E. coli trong đường tiêu hoá.
Ở Nhật Bản , năng suất của vật nuôi khi sử dụng thức ăn lỏng được chế biến từ phụ phế phẩm tương đương với năng suất của vật nuôi có sử dụng thức ăn công nghiệp.
2. Môi trường
Phát triển chăn nuôi (đặc biệt là chăn nuôi tập trung qui mô lớn) sẽ gây ra ô nhiễm môi trường: đất, nước, không khí...
Vật nuôi (đặc biệt là vật nuôi ăn cỏ nhai lại) cũng đã góp phần làm cho khí hậu toàn cầu ngày càng nóng lên và hiệu ứng nhà kính ngày càng rõ rệt.
Cần phải nghiên cứu hệ thống chăn nuôi làm giảm hai hiện tưọng trên (hệ thống sử dụng sinh khối và tái sinh).
3. Dịch bệnh
Gần đây một số dịch bệnh vật nuôi phát triển: cúm gia cầm (H5N1), lở mồm long móng (FMD), bò điên (BSE)... cần có các biện pháp khắc phục.
Ngoài các vấn đề trên, Nhật Bản còn coi trọng việc nghiên cứu và áp dụng các kỹ thuật mới, tiên tiến trong chăn nuôi, đặc biệt là phương pháp cloning. Nhật Bản coi cloning là một kỹ thuật mơ ước của thế kỷ 21.
Nguồn : TC Chăn nuôi, số 11/2006