Một số kinh nghiệm về nội thương tạp bệnh
1. Nội thương tạp bệnh, riêng bệnh can chiếm đa số
Nguyên nhân của nội thương, chủ yếu là do thất tình; bệnh về tình chí, phần lớn là tư lự buồn thương uất giận. Tư lự tuy có thể hại tỳ; nhưng mưu lự cũng có thể hại can. Buồn thương tuy có thể hại phế, nhưng buồn thương động ở bên trong thì hại đến hồn, dĩ nhiên cũng có thể ảnh hưởng tới can cho đến uất giận càng không phải bàn nữa. Ngay như lấy mệt nhọc mà nói, can là cái gốc của bãi cực (sự mệt nhọc cực độ) là cái tình chí không tách rời khỏi can. Ngoài ra như các loại khí, huyết, đờm, thực cũng không cái nào là không có liên quan tới can liên tục. Can uất thì khí trệ, khí trệ thì huyết ứ, mộc uất thì hoá hoả, hoả vượng thì sinh đàm, mộc lấn vào thổ cũng có khả năng sinh đờm, sinh thấp rồi dẫn đến kém tiêu hoá. Cho nên các chứng bệnh nặng như phong, lao, cổ, cách phần lớn là có liên quan đến can; cho đến chứng bệnh thần kinh suy nhược cũng có quan hệ rất lớn; do đó điều trị nội thương tạp bệnh, điều trị can có ý nghĩa rất trọng đại.
2. Đối với biện pháp điều trị bệnh phế lao và bệnh ở vị
Điều trị phế lao có 2 phép lớn tức là dưỡng âm bảo phế và bồi thổ sinh kim. Phép vận dụng nói chung, loại trên thiên về tư phế âm: loại sau thiên về ích tỳ dương nhưng không được xem nhẹ vai trò của vị phủ; từ linh thai đã từng nói: “phế khí hoàn toàn phải dựa vào vị âm để sống; nếu vị khí nhuận thì phế được nhờ vào sự bổ ích giá trị”. Cho nên sử dụng thuốc ích tỳ nên tránh dùng những thuốc quá thơm ráo, sợ tổn hại đến vị âm; thuốc dưỡng phế nếu dùng quá tay vị thuốc tư nhuận tất sẽ trở ngại vị khí; khí âm của vị một khi bị thương thì phế hư lại càng khó hồi phục. Nếu lưu tâm đến vị mới đúng là mang ý nghĩa “hư thì bổ mẹ” bồi thổ sinh kim.
Còn như chứng đau vị quản đa số không tách rời tạng can; cho nên bị mắc bệnh mà chữa từ can, vốn là khuôn phép đã có từ lâu. Nhưng điều trị can nên biết can là tạng cứng cỏi (cương tạng), bên trong ký gửi phong hoả, nếu dùng tới 1 vị thuốc cương táo lý khí thì can mộc lại càng hoành nghịch, vị càng bị tổn thương. Do đó khi chữa bệnh vị thống, nói chung thường nên dùng các vị ngoã bạng, toàn phúc, kim linh tử tán, tả kim hoàn v.v... nhằm mục đích nói trên.
3. Một vài nhận thức đối với hai phương tứ vật thang và tiêu giao tán.
Tứ vật thang và tiêu giao tán đều là những phương thuốc thường dùng trong phụ khoa, nhưng tật bệnh trong phụ khoa chứng can dương vượng chiếm khá nhiều; các vị khung quy trong tứ vật cay, ấm thơm tho có nhược điểm là trợ dương động hoả; người bệnh âm hư mộc vượng nên cẩn thận khi dùng. Vì tứ vật là phương thuốc lý huyết không nằm trong phép tắc tư âm. Thầy thuốc họ Hạ chữa cho một phụ nữ họ Chu thể trạng vốn huyết hư can vượng thường có chứng đầu choáng váng hồi hộp lại mới sinh nở được vài tuần, toàn thân đau nhức đầu thống liên miên đến nỗi không chải đầu được, sờ vào chân tóc đau không chịu nổi; một thầy thuốc họ Hạ mới khám, sau khi khám xong, phát biểu: Thầy thuốc trước sử dụng phép chữa của Lập Trai, họ Tiết nói: “Sau khi đẻ mà khắp người đau nhức; lấy tay sờ vào thì đau tăng đó là huyết ứ trệ, sử dụng tứ vật, bào khương, hồng hoa, trạch lan vừa bổ vừa tán tà”. Bây giờ người bệnh phú bẩm bất túc lại ở thời điểm sau khi đẻ huyết hư cho nên như thế. Tốc (phát) là huyết dư, sờ vào thì đau, cũng là do ứ trệ không ngờ gì nữa đặc biệt là lưỡi đỏ ít rêu mạch tế huyền sác, đây không phải là chỗ phát huy tác dụng của khung, quy, bào, khương; linh thai bàn vệ sản hậu có nói: “sau khi bị mất huyết, âm khí tổn thương lớn cô dương một mình bốc lên, lại vì ứ huyết không sạch, kết lại mà ấp ủ nhiệt”. Đây là sau khi đẻ vốn không có nhiệt chứng tác động vào thể của can hoả vốn vượng. Can là tạng chứa huyết, chủ về hệ thống gân toàn thân; âm hư hoả vượng, huyết nhiệt ứ trệ gân không được tư nhuận, mạch lạc tê nghẽn đến nỗi “không thông thì sinh ra đau” cái đau ấy nổi lên tuy do ứ trệ, mà cái nguyên nhân của ứ trệ lại do can dương quá găng mà sinh nhiệt. Lục Cử Chi nói: “Về phép tiêu ứ, nếu do nhiệt, thì phải thoái nhiệt rồi ứ mới tiêu chứ không phải chỉ có đào hồng mới tác dụng”. Liền dùng linh dương giác ẩm chủ yếu là để thanh nhiệt bình can, hỗ trợ thêm tác dụng lương huyết tiêu ứ và dùng thêm chút ít thuốc ôn thông để làm tá. Phương thuốc dùng linh dương giác 2 tiền, đại sinh địa 4 tiền, sao xích thược 1,5 tiền, trạch lan diệp 1 tiền, bạch vi 1,5 tiền, câu đằng 3 tiền, bạch tật lê 3 tiền, nhẫn đông đằng 3 tiền, xuyên quế chi 0,8 tiền, ty qua lạc 2 tiền, tang chi 4 tiền. Sau khi uống thuốc, xu thế đau giảm quá nửa; vẫn điều trị theo biện pháp trên, chỉ sau vài thang là bệnh khỏi.
Bài tiêu dao tán sử dụng trong trường hợp âm hư hoả vượng; ngại cái tính thăng của sài hồ; ngại cái tính táo của bạch truật, nếu lạm dụng sẽ trái với dụng ý của bài thuốc. Không những vậy cho đến các loại hương, sa, cũng nên cân nhắc tỷ mỉ đừng có vội nghĩ theo thuyết nói hương, sa là thuốc quý gia của phụ khoa mà tuỳ tiện sử dụng.
Nguồn: T/c Đông y, số 372, 25/4/2005, tr 7