Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 10/11/2011 17:37 (GMT+7)

Một số giải pháp góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành trung tâm khoa học và công nghệ

Trong bài viết này, chúng tôi muốn trao đổi về nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đào tạo nguồn nhân lực của các địa phương thuộc khu vực miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trung tâm KH&CN của khu vực và cả nước, làm nòng cốt trong việc thực hiện chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo và kinh tế-xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1. Nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đào tạo nguồn nhân lực của khu vực miền Trung và Thừa Thiên Huế

Khu vực miền Trung bao gồm nhiều nhiều địa phương trải dài từ Thanh Hóa đến Khánh Hòa và được chia thành hai khu vực là bắc miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) và nam miền Trung (Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa), trong đó một số địa phương được chính phủ quan tâm đầu tư và quy hoạch thành vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, bao gồm Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Các địa phương thuộc khu vực miền Trung đều có bề dày lịch sử-văn hóa lâu đời, truyền thống yêu nước đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, nhiều di sản văn hóa được UNESCO xếp hạng là di sản văn hóa lớn của thế giới như quần thể di tích Cố đô Huế, Hội An, Mỹ Sơn, Động Phong Nha… Đặc biệt, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có các hạt nhân kinh tế quan trọng của cảnước bao gồm khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), khu kinh tế Dung Quốc (Quảng Ngãi), khu kinh tế Chân Mây (Thừa Thiên Huế), khu kinh tế Nhơn Hội (Bình Định).

Với đặc trưng là các địa phương thuộc vùng kinh tế duyên hải miền Trung, địa hình có nhiều gò đồi, đầm phá, có khả năng nuôi trồng và đánh bắt nhiều loại thủy sản đặc biệt dành cho xuất khẩu như tôm hùm, các ngừ đại dương… được thiên nhiên ưu đãi ban tặng nhiều nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, với nhiều điểm khoáng sản có trữ lượng lớn như đá vôi, đá granit, than bùn, nước khoáng; là trung tâm của con đường hành trình di sản văn hóa thế giới của Việt Nam (Hạ Long-Phong Nha-Huế-Hội An-Mỹ Sơn), các địa phương thuộc khu vực miền Trung, đặc biệt Thừa Thiên Huế, rất cần sự hỗ trợ, phối hợp của các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực và cả nước, các tổ chức quốc tế trong việc tư vấn, hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội, triển khai nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn mang tầm quốc gia và quốc tế.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương trong cả nước đang trở nên bức thiết, đặc biệt là nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn và đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng yêu cầu của xã hội trong mọi lĩnh vực, ngành nghề theo hướng công nghệ cao và bền vững. Tuy nhiên, để giải quyết các vấn đề bức xúc nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh thực hiện nghị quyết trung ương về nông nghiệp, nông dân và môi trường, các địa phương trong khu vực miền Trung và Thừa Thiên Huế đang gặp nhiều khó khăn về năng lực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn của cán bộ chuyên trách, doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu, tầng lớp nhân dân. Theo Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, định hướng phát triển KH&CN của vùng kinh tế trọng điểm này tập trung vào việc sắp xếp, đầu tư chiều sâu hệ thống các trường đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học trên địa bàn theo hướng cơ cấu lại hệ thống ngành nghề đào tạo và nghiên cứu, hình thành các tổ chức gắn kết hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực với các cơ sở nghiên cứu, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp trên địa bàn, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu chuyển giao công nghệ. Đây là những điều kiện thuận lợi cho các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó có Thừa Thiên Huế nhận được sự hỗ trợ, phối hợp của các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu thuộc các trường đại học, viện nghiên cứu trong nước và các tổ chức quốc tế tham gia triển khai các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, tư vấn xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với đặc điểm vùng miền, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

2. Một số giải pháp góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành trung tâm KH&CN

Trong thời gian qua, được sự quan tâm của chính phủ và lãnh đạo địa phương, nhiều chương trình, dự án và đề tài về KH&CN đã được phê duyệt và triển khai tại một số địa phương của Thừa Thiên Huế góp phần giải quyết một số vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tếxã hội của địa phương. Ngoài ra, các trung tâm nghiên cứu và doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh cũng đã phối hợp với Đại học Huế, nhiều viện nghiên cứu, trường đại học trong khu vực và cả nước, các tổ chức quốc tế triển khai các đề tài, dự án nghiên cứu thiết thực phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương. Là một trung tâm đào tạo đa ngành và nghiên cứu khoa học có uy tín ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên và cả nước, các trường thành viên, các viện và trung tâm nghiên cứu thuộc Đại học Huế cũng đã có nhiều biện pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh các hoạt động KH&CN gắn với thực tiễn phát triển của các địa phương trong khu vực, đặc biệt là của Thừa Thiên Huế. Nhiều đề tài, dự án phối hợp triển khai với các tổ chức KH&CN, các doanh nghiệp trên địa bàn các địa phương thuộc khu vực đã được đánh giá có tính hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Từ năm 2008, trên cơ sở văn bản thỏa thuận về hợp tác KH&CN đã được ký kết giữa lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và Đại học Huế, quan hệ hợp tác, liên kết trong hoạt động KH&CN và đưa tiến bộ kỹ thuật vào phục vụ sản xuất và đời sống, khả năng tham gia triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giữa các nhà khoa học thuộc Đại học Huế với các cơ quan ban ngành, tổ chức KH&CN của địa phương đã gia tăng nhiều và trở nên gắn bó hơn. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy khả năng hợp tác về KH&CN giữa các nhà khoa học của Đại học Huế, các viện nghiên cứu, trường đại học trong khu vực và cả nước, các tổ chức quốc tế với chính quyền địa phương, các tổ chức KH&CN và đặc biệt là các doanh nghiệp đóng trên địa bàn Thừa Thiên Huế vẫn chưa được khai thác có hiệu quả, vẫn còn thiếu sự chủ động trong việc định hướng phát triển và phối hợp triển khai các hoạt động KH&CN phục vụ chiến lược phát triển của ngành và địa phương.

Ngoài ra, trong quá trình triển khai nghiên cứu, do hạn chế về kinh phí nên các nhà khoa học của Đại học Huế, các viện nghiên cứu, trường đại học trong khu vực và cả nước chưa có điều kiện thuận lợi trong việc tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thực tế sản xuất, kinh doanh của địa phương, các nhà doanh nghiệp để định hướng cho các đề tài nghiên cứu; chưa chủ động chuyển giao kết quả nghiên cứu, sản phẩm công nghệ cho các đối tác có nhu cầu ở địa phương. Trong thời gian đến, để xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trung tâm KH&CN của khu vực và cả nước, làm nòng cốt trong việc thực hiện chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo và kinh tế-xã hội cho các địa phương trong khu vực, cần phải có sự quan tâm đầu tư đúng mức của chính phủ, nỗ lực của lãnh đạo địa phương và cán bộ quản lý, các tổ chức KH&CN và doanh nghiệp đóng trên địa bàn Thừa Thiên Huế, sự hỗ trợ của các nhà khoa học thuộc Đại học Huế và các viện nghiên cứu, trường đại học trong khu vực, các tổ chức quốc tế. Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược nêu trên, căn cứ vào các thành quả đạt được về lĩnh vực KH&CN, khó khăn và thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đổi mới và hội nhập quốc tế của Thừa Thiên Huế, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp thiết thực cụ thể như sau:

2.1. Đối với các trường đại học và viện nghiên cứu trong khu vực

Đối với các hoạt động KH&CN gắn với nhu cầu của địa phương, ngoài những đề xuất, liên hệ của cá nhân, nhà khoa học, các bộ phận chức năng của trường đại học và viện nghiên cứu cần chủ động liên hệ với các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp và các tổ chức KH&CN đóng trên địa bàn Thừa Thiên Huế thông qua nhiều hình thức để triển khai ký kết hợp tác, xây dựng và đề xuất những đề tài có quy mô lớn, tập hợp đông đảo nhiều nhà khoa học tham gia nghiên cứu. Các đề tài nghiên cứu trong các trường đại học và viện nghiên cứu cần hướng vào các lĩnh vực:

- Phát huy bảo tồn các giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa của địa phương, triển khai công tác điều tra cơ bản đánh giá tiềm năng tài nguyên thiên nhiên và môi trường, nghiên cứu điều tra địa chất, lập bản đồ về các loại tài nguyên khoáng sản, xác định trữ lượng, chất lượng địa điểm các loại tài nguyên để có kế hoạch đưa vào khai thác và sử dụng hợp lý và hiệu quả.

- Nghiên cứu áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào thực tiễn sản xuất trên địa bàn, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, chú trọng các lĩnh vực nông nghiệp, cải tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên theo hướng bền vững, tiến hành khảo nghiệm, tuyển chọn các giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao, phù hợp với các tiểu vùng sinh thái.

- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp cơ chế, chính sách phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa bàn, xây dựng các định hướng phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, phòng, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

- Nghiên cứu phương thức kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu bảo tồn bản sắc văn hóa của các cộng đồng dân tộc ít người trên địa bàn các địa phương.

- Nghiên cứu về kinh tế-xã hội, các mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện địa phương, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi phù hợp với môi trường sinh thái và tập quán canh tác của nhân dân và dân tộc trong vùng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.

- Nghiên cứu, xây dựng định hướng để đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, bổ sung tư liệu cập nhật cho kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

- Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Triển khai áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng và nâng cao năng lực khám chữa bệnh cho cán bộ y tế địa phương.

- Nghiên cứu các đề tài thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục với các nội dung đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, công tác quản lý theo hướng nâng cao chất lượng. Nghiên cứu về quan hệ cung-cầu lao động kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

Một số giải pháp cụ thể

a. Tư vấn và xây dựng tiềm lực KH&CN

- Quan tâm giới thiệu và động viên, khuyến khích các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu tham gia tham gia vào các hội đồng tuyển chọn, đánh giá và nghiệm thu các đề tài KH&CN của địa phương, đặc biệt, tham gia vào việc tư vấn về KH&CN, giám định và phản biện các hoạt động liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, hoạch định chính sách của địa phương.

- Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các trung tâm và viện nghiên cứu trực thuộc, các nhà khoa học triển khai hợp tác với các cơ quan chức năng, các tổ chức KH&CN, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn của địa phương, phối hợp thực hiện chiến lược phát triển KH&CN quốc gia và của địa phương nhằm góp phần đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao và xây dựng tiềm lực KH&CN cho địa phương.

- Đề xuất xây dựng một số biện pháp thiết thực nhằm thể chế hóa và nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cho địa phương, tạo điều kiện và động viên cán bộ, giảng viênxây dựng một số hướng nghiên cứu trọng điểm nhằmgóp phần giải quyết các vấn đề bức xúc về giáo dục-đào tạo và kinh tế-xã hội cácđịa phương của Thừa Thiên Huế, đặc biệt chú trọng đến các lĩnh vực triển khai ứng dụng và chuyển giao công nghệ;kết hợp nghiên cứu

khoa học với đào tạo và thực tiễn sản xuất kinh doanh của địa phương.

- Tạo cơ chế ưu đãi cho các nhà khoa học khai thác, sử dụng nguồn nhân lực khoa học, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm và trang thiết bị của đơn vị để phục vụ các hoạt động phát triển KHCN của địa phương, sẵn sàng hỗ trợ các đơn vị trong việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực khoa học trình độ cao cho địa phương dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, ưu tiên bồi dưỡng, đào tạo các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao.

b. Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ

- Khuyến khích các nhà khoa học tham gia đề xuất, đăng ký tuyển chọn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội các địa phương của Thừa Thiên Huế, hỗ trợ hoặc trực tiếp triển khai các đề tài nghiên cứu ứng dụng, dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

- Động viên và tạo điều kiện để các nhà khoa học tích cực chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tiến bộ kỹ thuật cho các cơ quan chức năng, các tổ chức KH&CN, các doanh nghiệp của địa phương phục vụ phát triển sản xuất và đời sống với những hình thức, cơ chế phù hợp theo quy định hiện hành của trung ương và địa phương.

- Khuyến khích các nhà khoa học tổ chức giới thiệu các kết quả nghiên cứu khoa học và sản phẩm công nghệ của đơn vị tại các địa phương của Thừa Thiên Huế với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học, tọa đàm, triển lãm... và cùng với các cơ quan ban ngành liên quan phối hợp đề xuất, xây dựng chương trình, hành động cụ thể cho từng năm, từng giai đoạn theo chiến lược phát triển của địa phương.

- Trong kế hoạch nghiên cứu KH&CN hàng năm nên có cơ chế ưu tiên tuyển chọn và đề xuất các bộ chủ quản phê duyệt, cấp kinh phí cho các đề tài, dự án do các nhà khoa học tham gia phối hợp triển khai nghiên cứu với doanh nghiệp, các tổ chức KH&CN đóng trên địa bàn phục vụ trực tiếp nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

- Phối hợp với các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức KH&CN đóng trên địa bàn Thừa Thiên Huế nghiên cứu đề xuất và triển khai thực hiện các đề tài trọng điểm, dự án hợp tác quốc tế về KH&CN, chương trình hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng triển khai nhằm nâng cao năng lực trình độ nhân lực khoa học, bổ sung cơ sở vật chất và trang thiết bị, cung cấp thông tin, chuyển giao thành tựu KH&CN tiên tiến phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

2.2. Đối với các nhà quản lý địa phương của Thừa Thiên Huế

Các nhà quản lý địa phương của Thừa Thiên Huế cần xây dựng chiến lược phát triển KH&CN phù hợp với điều kiện của địa phương, phải có chính sách, đãi ngộ khuyến khích thu hút nhân tài, tạo môi trường làm việc để hạn chế chảy máu chất xám ra khỏi khu vực. Việc đầu tư xây dựng, phát triển tiềm lực KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải gắn với chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị để đảm bảo khả năng khai thác và ứng dụng, góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội.

Một số giải pháp cụ thể

a. Xây dựng cơ chế chính sách về KH&CN

- Tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại và các nguồn lực của địa phương để các nhà khoa học triển khai có hiệu quả các hoạt động khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

- Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi và tạo mọi điều kiện để có thể thu hút, sử dụng có hiệu quả các chuyên gia tư vấn khoa học do các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực cung cấp, trong đó ưu tiên, ưu đãi về thủ tục, cơ sở hạ tầng để các trường đại học, viện nghiên cứu có thể thành lập và phát triển các tổ chức khoa học trên địa bàn đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực khoa học phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

- Xây dựng cơ chế chính sách đối với việc giao nhận đề tài, quản lý kinh phí nghiên cứu và thẩm định chất lượng sản phẩm khoa học sao cho thuận lợi cho các nhà khoa học tham gia triển khai nghiên cứu, xác định nhu cầu đầu tư tài chính và thực hiện các đề tài cho phát triển công nghệ ở các ngành sản xuất khác nhau, đổi mới công nghệ gắn với sự phát triển KH&CN của địa phương.

- Xây dựng cơ chế khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức khoa học, các doanh nghiệp của địa phương tiếp nhận chuyển giao, áp dụng các kết quả nghiên cứu của các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực và tổ chức quốc tế phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

- Tiếp tục triển khai văn bản thỏa thuận về hợp tác KH&CN đã được ký kết giữa lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và Đại học Huế, tạo điều kiện ưu tiên phê duyệt và hỗ trợ kinh phí triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ do các nhà khoa học thuộc Đại học Huế phối hợp với các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp và tổ chức KH&CN của địa phương xây dựng đề xuất.

b. Tăng cường tiềm lực về KH&CN

- Lập kế hoạch nhu cầu bồi dưỡng, đào tạo hàng năm về cấp độ, chuyên ngành và trao đổi với các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực để có phương thức và cơ chế phù hợp; có cơ chế khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, cá nhân của địa phương tham gia các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn của các trường đại học, viện nghiên cứu phù hợp với những hướng ưu tiên của địa phương.

- Trong kế hoạch nghiên cứu KH&CN hàng năm của địa phương, nên có ít nhất từ 1 đến 2 đề tài trọng điểm được giao trực tiếp cho đơn vị trực thuộc các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực (do các đơn vị này đề xuất), ưu tiên phê duyệt các đề tài lớn có sự đầu tư kinh phí của địa phương và các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực.

- Đổi mới phương thức quản lý theo hướng phân cấp cho các tổ chức KH&CN quyền tự chủ về tài chính, tổ chức nhân sự, cho phép các nhà khoa học tham gia triển khai đề tài, dự án có quyền tự chủ cao hơn trong sử dụng kinh phí thuộc ngân sách nhà nước, được điều chỉnh nội dung nghiên cứu phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện để các nhà khoa học địa phương, cán bộ quản lý đi trao đổi chuyên môn ở nước ngoài và mời chuyên gia nước ngoài vào hợp tác nghiên cứu trong nước.

- Ban hành cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao và đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp, phát triển các dịch vụ kỹ thuật cho địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đồng thời tạo môi trường hoạt động, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và tăng thu nhập chính đáng cho đội ngũ các nhà khoa học của địa phương.

- Tăng cường tiềm lực KH&CN của địa phương trên các lĩnh vực trọng điểm về công nghệ sinh học, CNTT, hệ thống cơ sở dữ liệu về kinh tế-xã hội, tài nguyên môi trường... Đầu tư nguồn kinh phí thích đáng để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ trình độ cao phục vụ cho các ngành kinh tế trọng điểm của địa phương và các lĩnh vực công nghệ cao, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thu hút đầu tư nước ngoài.

Kết luận

Trên đây là một số trao đổi về nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đào tạo nguồn nhân lực của các địa phương thuộc khu vực miền Trung và Thừa Thiên Huế và một số giải pháp thiết thực nhằm góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trung tâm KH&CN của khu vực và cả nước, làm nòng cốt trong việc thực hiện chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo và kinh tế-xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng tôi tin tưởng rằng, trong thời gian đến, đặc biệt giai đoạn 2010-2015, trên cơ sở sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, nỗ lực của chính quyền các cấp và nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, sự hỗ trợ của các nhà khoa học thuộc Đại học Huế, các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực và cả nước, các tổ chức quốc tế sẽ góp phần đáp ứng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương khu vực miền Trung và Thừa Thiên Huế trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, thiết thực xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trung tâm KH&CN có uy tín của khu vực và cả nước.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.