Một số giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong công cuộc đổi mới
Những năm đổi mới, nhất là từ khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, thị trường truyền thống của các làng nghề bị thu hẹp, sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của các làng nghề. Mặt khác, những sản phẩm công nghiệp và hàng hoá ngoại nhập đang chiếm ưu thế đối với các sản phẩm thủ công bởi sự đa dạng về mẫu mã, sự tiện dụng và giá cả cạnh tranh, vì vậy một số làng nghề đã bị mai một, thậm chí thất truyền.
Để bảo tồn và phát triển các làng nghề đạt kết quả tốt, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp luôn quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho các làng nghề phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá X), về Nông nghiệp, nông dân và nông thônđã nêu rõ những thuận lợi và khó khăn có tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. Nghị quyết xác định cần phải thực hiện "đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề".
Trước yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế đất nước, sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền các cấp và những nỗ lực cố gắng của mỗi làng nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề đã dần đi vào ổn định và có bước phát triển mới. Các làng nghề đã chủ động bồi dưỡng nguồn nhân lực, tập trung đầu tư vốn, công nghệ nhằm đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước và từng bước thâm nhập thị trường nước ngoài. Các làng nghề đã giải quyết việc làm tại chỗ và tạo thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động ở khu vực nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, gắn kết cộng đồng các cư dân trong làng xã; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và giải quyết tình trạng di dân tự do vào các đô thị lớn. Một số ngành nghề có xu hướng phát triển mạnh như: gốm sứ, điêu khắc, khảm trai, thêu ren, mây tre đan, da giầy, kim hoàn,... Chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội năm 2009, giá trị sản xuất của các làng nghề chiếm 10% và năm 2010 tăng lên 12% tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp toàn thành phố. Có những làng nghề đạt doanh thu hàng trăm tỉ đồng mỗi năm như: Làng gốm Bát Tràng, Làng lụa Vạn Phúc, Làng nghề dệt kim và bánh kẹo La Phù... Tiềm năng và sự đóng góp của các làng nghề với phát triển kinh tế - xã hội, nhất là địa bàn nông thôn là rất lớn.
Mặc dù vậy, việc bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống vẫn còn một số hạn chế do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là: Khả năng tiếp thị, nắm bắt thị trường của các làng nghề chưa tốt; việc chuyển giao công nghệ và cải tiến mẫu mã còn chậm; khả năng cạnh tranh trên thị trường của các sản phẩm làng nghề còn nhiều bất cập do mới chỉ tập trung sản xuất các mặt hàng tinh xảo; vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chưa được quan tâm đúng mức; việc tiếp cận các nguồn vốn cho sản xuất của các doanh nghiệp nhỏ còn khó khăn; giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường chưa tốt; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ và chưa được quan tâm giải quyết hợp lý .. .Năm 2010 có trên 20% số doanh nghiệp làng nghề bị phá sản, số còn lại đang gặp rất nhiều khó khăn.
Bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống là yêu cầu khách quan, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới. Trong thời gian tới, để bảo tồn và phát triển các làng nghề cần tập trung một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với quá trình bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống.Sự lãnh đạo đúng đắn của các cấp uỷ đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu đến thắng lợi trong quá trình thực hiện bảo tồn, phát triển các làng nghề. Định hướng phát triển cần phải xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể của mỗi địa phương, mỗi làng nghề, gắn với sự phát triển chung của các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, ... Các tổ chức cơ sở đảng phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị trung tâm, là tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo của mỗi tổ chức đảng. Các cấp ủy đảng phân công các đồng chí cấp ủy có trình độ, có tâm huyết theo dõi, chỉ đạo hoạt động sản xuất - kinh doanh của các làng nghề. Kịp thời phát hiện và đề xuất với cấp có thẩm quyền giải quyết dứt điểm những vướng mắc, khó khăn nảy sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh của các làng nghề. Các tổ chức cơ sở đảng quan tâm, chăm lo bồi dưỡng, phát triển đảng viên mới hướng vào những quần chúng ưu tú, giỏi nghề và yêu nghề trong các làng nghề. Thực tế cho thấy, địa phương nào tổ chức đảng thường xuyên được củng cố, có chủ trương lãnh đạo bảo tồn, phát triển làng nghề sát đúng, ở đó các làng nghề truyền thống phát triển tốt, bộ mặt nông thôn được cải thiện, góp phần tăng cường sự tin tưởng, gắn bó của nhân dân vào cấp ủy và chính quyền địa phương; mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn được củng cố vững chắc.
Hai là, nâng cao năng lực, trách nhiệm của chính quyền các cấp trong công tác quản lý bảo tồn, phát triển của làng nghề.Yêu cầu phát triển nhanh và bền vững các làng nghề truyền thống nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới không chỉ tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, mà cần phải nâng cao hơn nữa năng lực và trách nhiệm quản lý của chính quyền các cấp. Chính vì vậy, củng cố và nâng cao năng lực, trách nhiệm của chính quyền các cấp vừa là đòi hỏi mang tính nguyên tắc, vừa mang tính thực tiễn sâu sắc. Từ chủ trương của nghị quyết, chính quyền các cấp xây dựng kế hoạch phù hợp với đặc điểm của địa phương, sát với từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển của các làng nghề; ưu tiên quy hoạch xây dựng các khu sản xuất tiểu thủ công nghiệp, tiến tới đưa các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất từ hộ gia đình ra những cụm công nghiệp làng nghề tập trung. Quy định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, nhằm nâng cao chất lượng quản lý, điều hành hoạt động đối với các làng nghề. Đây là một trong những khâu quan trọng quyết định trực tiếp đến sự thành công chủ trương của Đảng về bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống.
Ba là, bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống phải kết hợp chặt chẽ với các loại hình du lịch làng nghề, du lịch sinh thái.Thực tế cho thấy, ở một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaixia, ...du lịch làng nghề đã có từ rất sớm và phát triển mạnh. Việt Nam là một quốc gia gắn liền với nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với kết cấu cộng đồng làng xã trong đó còn lưu giữ được các địa tầng văn hoá, phong tục tập quán đặc sắc, những nét đặc trưng của văn hoá người Việt; nổi bật là các làng nghề thủ công truyền thống. Chính vì vậy, tiềm năng du lịch làng nghề ở Việt Nam là rất lớn, song vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ cần được quan tâm đầu tư phát triển.
Ở Việt Nam , nhiều địa phương, nhiều vùng miền có làng nghề truyền thống, có nơi không chỉ là làng nghề mà là cả xã làm nghề. Nhiều làng nghề nổi tiếng gắn với những sản phẩm đặc sắc, mang đậm văn hoá, tâm hồn và nét tài hoa của người Việt như: thêu ren, trạm khảm, đúc đồng,... Đặc biệt, có những làng nghề tồn tại gắn liền với sự phát triển của các làng Việt cổ, hay các di tích lịch sử, khu du lịch như: Làng Việt cổ Đường Lâm - Sơn Tây với nghề làm cỏ tế; Làng thêu Gia Phúc - Hà Nội với những sản phẩm nổi tiếng từ thời phong kiến như tranh thêu tiến Vua, nằm sát ngôi chùa Đậu nổi tiếng; Làng dệt thổ cẩm và kim hoàn Cát Cát - Sa Pa...Những thế mạnh đó đã được các địa phương khai thác, biến du lịch làng nghề trở thành một hoạt động kinh tế hiệu quả và mang lại nguồn thu ngân sách cho địa phương. Song thực tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của các làng nghề. Trong chiến lược phát triển du lịch của cả nước và của mỗi địa phương cần quan tâm thích đáng đối với việc đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch làng nghề. Việc quy hoạch xây dựng các cụm làng nghề theo hướng trên cùng một địa phương có thể cùng tồn tại nhiều loại hình sản xuất khác nhau để không chỉ phát huy thế mạnh hiện có, mà còn giúp cho du khách tham quan được nhiều ngành nghề trong khi chỉ cần tham quan một xã, thậm chí là một làng. Ngay trong mỗi làng nghề cần ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu trưng bày, các công trình văn hoá, xây dựng các hộ gia đình nghệ nhân tiêu biểu thành các điểm đón khách; đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội; tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức và văn hoá giao tiếp cho người dân ở làng nghề khi tiếp xúc với các du khách. Giải quyết tốt việc chia sẻ lợi ích từ du lịch cho mọi người dân.
Bốn là, đổi mớicơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực và tăng cường ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong sản xuất tại các làng nghề.Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường nội địa và xuất khẩu, sự cạnh tranh của các mặt hàng nhập khẩu, sản phẩm của các làng nghề cần được đổi mới cả về chất lượng, mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm, từ đó đòi hỏi các làng nghề phải tăng cường ứng dụng, đổi mới công nghệ sản xuất, quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao và giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, việc tiếp cận các nguồn lực tài chính hỗ trợ sản xuất là rất cần thiết đối với các làng nghề. Hiện nay, Nhà nước đã ban hành cơ chế, chính sách và các ưu đãi về vốn vay, thuế cho phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, song vẫn thiếu đồng bộ, chưa thực sự tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp và các hộ sản xuất trong làng nghề tiếp cận các nguồn vốn vay, nhất là các nguồn vốn vay ưu đãi để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ. Một số doanh nghiệp không tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi đã rơi vào tình trạng khó khăn, thu hẹp dẫn quy mô sản xuất. Ngoài việc tạo cơ chế, chính sách thuận lợi thì việc thường xuyên tổ chức các hội trợ hàng thủ công truyền thống, các hoạt động trình diễn mô hình; thành lập các quỹ khuyến công, quỹ bảo lãnh tín dụng, nhằm hỗ trợ sản xuất cho các làng nghề là một yêu cầu cần thiết. Năm 2001, Chính phủ đã ban hành Quyết định về Quy chế thành lập, hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng đến năm 2010 quỹ mới được thành lập ở 9 tỉnh.
Năm là, quan tâm đúng mức và tôn vinh tài năng các nghệ nhân làng nghề.Để bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống cần quan tâm chăm lo đến nhân tố con người, trong đó các thế hệ nghệ nhân là yếu tố quyết định trực tiếp. Bởi nghệ nhân chính là những báu vật nhân văn sống, là những người có sứ mệnh lĩnh hội, cải biến, bổ sung và truyền nghề; họ cũng là cầu nối giữa tổ nghiệp với các thế hệ mai sau và có nhiều năm gắn bó với nghề. Thực tế cho thấy, một số làng nghề vì nhiều lý do sản xuất bị mai một, nhưng ở đó do còn nghệ nhân truyền dạy nghề, nên đã có cơ hội để bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống.
Phát triển sản xuất của các làng nghề trong tình hình mới đòi hỏi nguồn nhân lực có tay nghề cao, song trên thực tế phần lớn số lao động tại các làng nghề là do tự học ngay tại các làng nghề. Việc tổ chức để các nghệ nhân truyền nghề cho số lao động trẻ sẽ tạo ra thế hệ những người lao động có tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao động tại các làng nghề. Đây chính là nguồn lực để hình thành nên thế hệ nghệ nhân mới của làng nghề. Tôn vinh nghệ nhân là một trong những yếu tố để bảo tồn làng nghề và ngược lại muốn bảo tồn, phát triển làng nghề nhất thiết phải phát huy vai trò của các nghệ nhân. Đây là thực tiễn của các làng nghề.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản góp phần bảo tồn và phát triển các làng nghề. Để thực hiện có hiệu quả những giải pháp này đòi hỏi các cấp ủy và chính quyền cần vận dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và trước hết phải là sự cố gắng của chính các làng nghề.
Phát triển làng nghề trong thời gian tới vẫn là vấn đề cần thiết. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định Phát triển làng nghề là một trong bốn chương trình lớn góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: "Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường".