Một kỹ sư nối thành công hệ thống tự động mới cho Nhà máy thủy điện Đrây H'Linh
Năm 1986, sau khi bảo vệ thành công đề tài "Điện khí hóa xí nghiệp" (Đại học Bách khoa Đà Nẵng), chàng kỹ sư điện Nguyễn Văn Đức quê gốc Quảng Bình khi đó mới tròn 23 tuổi đã xung phong lên vùng sâu Cư Jút, tỉnh Đắc Lắc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng Nhà máy thủy điện Đrây H"Linh - thủy điện lớn đầu tiên ở Tây Nguyên lúc bấy giờ, vận hành theo công nghệ Tiệp Khắc. Sau gần 5 năm ròng rã xây dựng, cuối năm 1989, một trong ba tổ máy đầu tiên của nhà máy chính thức phát điện. Khó có thể miêu tả được niềm vui của những kỹ sư, công nhân nơi đây khi thấy nước từ dòng Sêrêpôc ngày nào giờ đã thành nguồn điện thắp sáng cho cả một vùng Tây Nguyên. Gắn bó với nhà máy đến năm 1994, Đức tạm chia tay, trở về đảm trách khâu kỹ thuật của Điện lực Đắc Lắc. Nhưng anh vẫn âm thầm dõi theo "nhịp thở" Đrây H"Linh...
Theo đúng quy trình của nhà sản xuất, sau 10 năm vận hành, thủy điện Đrây H"Linh phải ngừng phát điện để tiến hành sửa chữa. Và lần này những người quản lý đã quyết định cải tạo, nâng cấp nhà máy theo công nghệ của Đức - một công nghệ tiên tiên nhất trong lĩnh vực điều tốc (bộ phận quan trọng của nhà máy thủy điện). Khổ nỗi: công nghệ mới của Đức lại phải lắp trên một "bộ xương" cũ của Tiệp Khắc nên không đồng bộ. Điều này khiến các chuyên gia người Đức đau đầu. Tính toán mãi, cuối cùng họ yêu cầu phía Việt Nam phải tìm thuê chuyên gia Tiệp Khắc - "cha đẻ" của nhà máy về thì lúc đó nhà máy mới có thể vận hành sớm được. Hợp đồng đã được lập, hai chuyên gia Tiệp Khắc sẽ sang Việt Nam làm việc trong hai tháng - với mức lương 15.000 USD/ người/tháng.
Nhưng kỹ sư Đức lại nghĩ khác. Từng sống chết với nhà máy suốt hơn 7 năm trời nên anh rất hiểu quy trình vận hành của các thiết bị. Trong một lần họp giao ban sản xuất, anh mạnh dạn đề xuất "xin được đảm nhận phần việc của hai chuyên gia". Đồng nghiệp băn khoăn nhưng Đức thì cương quyết. Sau hơn 2 tháng mày mò tự đọc, dịch tài liệu đến nghiên cứu hồ sơ thiết kế, cuối cùng phương án cải tạo hệ thống mạch tự động cũ và thiết kế đấu nối giữa hệ thống tự động cũ (công nghệ Tiệp) với hệ thống tự động mới (công nghệ Đức) được Đức xúc tiến. Anh tiến hành một loạt thao tác như: cải tạo hệ thống mạch tự động, đưa tín hiệu bảo vệ từ hệ thống cũ sang hệ thống mới, đưa tín hiệu điều khiển từ tủ điều khiển điều tốc mới đến các tổ máy...
Rồi anh tự tay thiết kế mạch báo tín hiệu bằng đèn, còi khi có sự cố... Sau gần 6 tuần "hụp lặn" trong hàng nghìn mạch điện lớn nhỏ, kết quả là cả hai hệ thống cũ và mới trên cùng một tổ máy đã được Đức thông mạch chính xác với độ an toàn cao khiến các chuyên gia người Đức khâm phục. Số 1 rồi số 2, số 3, các tổ máy lần lượt hoạt động trở lại một cách ổn định. Đức kể: "Lúc đầu khi tôi xin đấu nối vào chạy thử với các thiết bị mới thì các chuyên gia người Đức nhất quyết không cho. Họ sợ hỏng. Nhưng khi thấy tôi đấu nối thành công thì họ phấn khởi lắm, bởi như thế họ sớm được về nước". Đức cũng tâm sự "Mình không làm được thì các chuyên gia Tiệp cũng sẽ làm, nhưng như thế tốn nhiều tiền, thậm chí phải mua thêm các thiết bị mới theo yêu cầu của chuyên gia, trong khi thiết bị mình lại dư". Nếu chỉ tính riêng số tiền làm lợi từ việc tận dụng thiết bị cũ đến việc rút ngắn thời gian các tổ máy phát điện, số tiền mà Đức làm lợi đã ở con số không dưới 500 triệu đồng. Đó là chưa kể đến khoản tiền 60.000 USD phải bỏ ra để thuê hai chuyên gia Tiệp Khắc. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã tặng bằng khen "Lao động sáng tạo" cho kỹ sư Nguyễn Văn Đức.
Nguồn: www.nhandan.com.vn 17/9/2003