Một cuốn sử địa phương đáng chú ý
Tác giả Nguyễn Văn Nhượng, nguyên quán ở Cổ Nhuế, sinh năm 1917, trước nay sống gắn bó với quê hương. Thuở thanh niên là Liên đoàn trưởng Hướng đạo Cổ Nhuế và Diễn, Giám đốc khu hội Truyền bá quốc ngữ Cổ Nhuế, bí thư trưởng xã bộ Việt Minh. Được cử làm phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính quận Đại La và Trưởng ban tản cư di cư, tổ chức cho nhân dân vùng Kẻ Noi sơ tán khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Khi hoà bình lập lại, trở về quê hương là Phó Bí thư Nông hội, Uỷ viên Uỷ ban hành chính, Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Cổ Nhuế, Uỷ viên thư ký Ban chấp hành Huyện hội Đông y Từ Liêm.
Tiểu sử của ông cho phép tin tưởng ở những hiểu biết sâu rộng về các mặt của quê hương ông, xã Cổ Nhuế.
Cuốn sách gồm 3 chương: (I) Cảnh sắc vùng đồng đất làng Cổ Nhuế; (II) Lịch sử Cổ Nhuế từ đầu triều Nguyễn đến trước kháng chiến toàn quốc; (III) Cổ Nhuế trong kháng chiến toàn quốc và sau khi hoà bình được lập lại. Trong bài này, chúng tôi giới hạn việc giới thiệu một vài điểm ở chương I.
Nguồn gốc lịch sử của xã Cổ Nhuế
Vùng Cổ Nhuế xưa kia là một vùng hoang hoá, phía Bắc sông Hồng, phía Tây có sông Nhuệ, Đông Nam có sông Thiên Phù nối liền từ sông Tô Lịch sang sông Nhuệ. Thời xa xưa, nước lũ sông Hồng hằng năm gây lũ lụt, làm thành một vùng hoang rậm, có nhiều hồ đầm, chuôm đìa và những cồn bãi, cây cỏ dại mọc hoang. Dân cư thưa thớt.
Năm Canh Tuất (1010) Lý Thái Tổ ra chiếu “Thiên đô”, triều đình cho xây dựng thành, đắp luỹ, xây dựng đền đài cung điện. Dân cư tìm đến lập phường, lập trại, khai hoang vỡ rậm.
Vùng đất Cổ Nhuế hoang vu nhưng đất đai màu mỡ nhờ có phù sa sông Hồng bồi đắp. Cùng với số dân cư bản địa thưa thớt, một số nông dân vùng Thanh Nghệ và Hoa Lư phải đi làm nghĩa vụ binh dịch khi rời đô, khi định đô xong, đã rủ nhau đến đó khai hoang vỡ rậm và đón thân nhân ở quê ra thêm.
Sông Thiên Phù và những đồng lầy tạo ra một luồng giao thông đi lại, ra vào, lúc đầu phải lội qua, sau dần dần bắc cầu mà noi, “bắc cầu mà noi, không ai bắc cầu mà lội”, vùng này thành tên Kẻ Noi.
Sau khi định đô xong, triều đình Lý vẫn phải dẹp một số vụ nổi dậy của tù trưởng địa phương. Hoàng tử Đông Chinh Vương vâng lệnh vua cầm quân ra trận, đội quân cận vệ trong đó có người Kẻ Noi, phục vụ hết lòng. Những người Kẻ Noi đi binh dịch bàn nhau khi về Kinh qua Chòm Noi xin nộp sớ để chính thức thành lập làng. Quanh vùng hoang rậm này, có một bến nước từ xa xưa vắt qua sông Nhuệ, họ bàn nhau xin đặt tên làng là Cổ Nhuế (bến nước xưa).
Khi quan quận trở về quan vùng Kẻ Nôi về Kinh, dân nô nức kéo ra hai bên đường, dón đoàn quân thắng trận và bái yết Hoàng Vương, đệ sớ xin phong làng xã. Đức Vương lệnh cho dân được cùng đoàn quân vào kinh đô hội mừng chiến thắng.
Các làng xã quanh Đô Kỳ cũng tổ chức mừng lễ hội chiến thắng. Nhiều nơi cư dân ra chào đón xin làm phúc thần. Vương sư chưa hứa nhận nơi nào. Chỉ có nơi gần kinh thành, chỗ bến nước xưa (Cổ Nhuế), dân tình nghèo lắm, đất chật người hiếm, hết lòng xin làm thần hoàng nên tâu xin vua cha chiếu xét.
Vua Lý Thái Tổ xét sớ rồi hạ chiếu chỉ ban phong cho làng Cổ Nhuế. Từ đấy Kẻ Noi được chính thức công nhận lập thành xã Cổ Nhuế.
Ngày mùng mười tháng mười(Tết trùng thập) là ngày sinh của Thần hoàng là Hoàng tử Đông Chinh Vương. Lễ được tổ chức ở đình. Lễ vật tu sửa theo nghi thức và các phẩm vật được ghi trong thần phả, gồm có:
1. Một bát canh ngũ tạng (tim, gan, tỳ, phổi, thận).
2. Một bát ngũ vị chân tu (nộm).
3. Một bát chè kho.
4. Một đĩa bánh rán 12 chiếc.
5. Mười hai bát chè đậu đãi.
6. Mười hai chiếc bánh dầy.
7. Một hồ rượu sen.
8. Mười hai miếng trầu cau.
9. Một mâm ngũ quả 10 thứ: chuối tiêu, chanh yên, phật thủ, cam, quất, bòng, kỳ đà, hồng, mía de tím, củ đậu.
Các di tích văn hoá xã Cổ Nhuế
Cuốn sách ghi 12 di tích văn hoá. Đáng chú ý là:
Đình Làng: được Hoàng Vương lên ngôi là Lý Thái Tông năm Quý Mùi (dương lịch 1043) nhờ hai sứ thần nhà Tống về tận nơi cắm đất. Đình trông về hướng Đông – Nam , dụng ý đề cao thần linh, theo cầu xưa “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ” (Thánh nhân mặt nhìn về phương Nam để nghe lời thiên hạ. Có “Thuỷ tụ tiền đường” (trước mặt có nước đọng) để tích phúc và no đủ. Có các cây như cây “đề” tượng trưng cho giác ngộ, cây “gạo” tỏ ra thông trời đất, cây “đa”, cây “đại” biểu trưng thiên mệnh đầy sinh khí.
Làng Cổ Nhuế có ngôi đình to đẹp, theo kiểu kiến trúc đời Lý.
Di tích Đông ylà một ngôi nhà thờ cổ, thờ quan Thái y Nguyễn Hữu Đạo, được phong là “Tướng sĩ thứ lang” vì có công chữa bệnh cho Hoàng hậu cùng gia đình quan lại thời ấy - Sắc phong ngày 25 tháng Tám năm Nhâm Dần (1782), Cảnh Hưng năm 43.
Ông còn có công cầm quân đi đánh giặc,, thuỷ chiến ở bờ biển phía Nam và chữa bệnh cho quan quân ngoài mặt trận, thắng trận về được phong “Bình Nam thượng tướng quân) - Sắc phong ngày 21 tháng 4 năm Bính Ngọ (1786), Cảnh Hưng năm 47.
Trong khuôn khổ viết bài báo, chúng tôi tiếc không đề cập được những sự kiện bi tráng, hào hùng ở Cổ Nhuế trong lịch sử đấu tranh và xây dựng dưới thời Pháp thuộc, trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám, trong cuộc kháng chiến toàn quốc, khi Cổ Nhuế còn là vùng tự do anh dũng chặn bước tiến của giặc cũng như trong thời kỳ tạm chiếm diệt địch trừ gian.
Chúng tôi nghĩ rằng Cổ Nhuế ban mailà một gợi ý tốt cho việc viết lịch sử các xã, vùng địa phương. Các tác phẩm lịch sử địa phương, với những tư liệu về thần phả, biểu chế, sắc phong, bi ký… về lịch sử xa xưa cũng như các tư liệu cụ thể, sinh động về cách mạng, về kháng chiến ở địa phương, là những đóng góp từ quần chúng lên, kết hợp một cách thuận lợi với việc nghiên cứu lịch sử của các ban chuyên nghiệp.
Nguồn: Xưa & Nay, số 83, 1/2001







