Một cuộc viếng thăm ở Đàng ngoài
Một cuộc viếng thăm
Tôi xin kể cho bà Bá tước nghe vài câu chuyện về phong tục kì lạ xứ Đàng ngoài (1).
Sau đây là một tập tục mà bà sẽ thấy kỳ lạ, nhất là khi quan sát kỹ lưỡng. Tập tục này cũng thấy bên Trung Hoa, nhưng ít buồn cười hơn và hiện nay dân Trung Quốc cũng bỏ dần.
Khi một người Đàng Ngoài đến thăm viếng ai, họ đứng lại ở ngoài cổng và trao cho người canh cổng một tập giấy gồm 8 đến 10 trang, trong đó họ viết chữ khá lớn tên chức vị và mục đích cuộc thăm viếng.
Tập sách ấy làm bằng giấy trắng và bọc bìa đỏ: người Đàng Ngoài có nhiều cách thăm viếng nhau tuỳ cấp bậc. Nếu chủ nhà đi vắng, người ta giao lại cuốn sách đó cho người gác cổng và xem như là đã đến viếng thăm và được tiếp nhận.
Một vị quan viên khi đi thăm viếng ai, phải ăn bận đúng với danh phận ông ta và hợp nghi lễ xã giao. Nếu người nào không phải là quan chức, nhưng có danh tiếng trong quần chúng nhân dân, cũng có y phục dành riêng cho việc thăm viếng và phải ăn mặc cho đúng phép lịch sự.
Người được thăm viếng phải đi ra cửa ngoài để tiếp đón kẻ đến thăm mình. Cả hai đều chắp hai tay và cúi đầu chào nhau. Chủ nhân đưa tay chỉ vào cửa và mời khách vào nhà. Nếu có nhiều người trong nhà, người cao tuổi nhất hoặc người có địa vị cao nhất sẽ ngồi chỗ danh dự, nhưng chỗ này luôn được dành cho một người ngoại quốc. Chỗ danh dự nhất là nơi gần cửa ra vào, trái ngược với phong tục bên ta (bên Pháp – NTH) (2). Sau khi mọi người đã an toạ, khách trình bày lý do cuộc thăm viếng. Chủ nhà lắng nghe chăm chú và nghiêm trang, thỉnh thoảng gật đầu như thường thấy trong các cuộc tiếp khách. Sau đó, các nhân viên phục vụ của chủ nhà với y phục nghi lễ, mang ra một chiếc bàn có hình tam giác trên đó được bày đặt với số lượng gấp hai lần số những ngừơi tham dự gồm các loại cốc uống trà với hai hộp trầu, điếu hút thuốc và thuốc lá.
Sau buổi thăm viếng, chủ nhà tiễn khách ra tận giữa đường cái và họ bắt đầu cúi chào nhau, đưa tay lên cao và khen ngợi nhau.
Cuối chùng, khi khách đã đi khá xa, chủ nhà còn sai một đày tớ đến nói lời khen ngợi thay cho chủ nhà. Sau một thời gian, người khách lại gửi đầy tớ đến tạ ơn chủ nhà, sự viếng thăm mới kết thúc.
Một bữa tiệc
Không phải chỉ trong các cuộc viếng thăm mà trong mọi cuộc tiếp xúc ngoài xã hội, chúng tôi đều bắt gặp một phép lịch sự phiền toái.
Dân Đàng Ngoài có tập quán hay tụ họp ăn uống với nhau và đây là cơ hội họ bàn chuyện làm ăn.
Trong bữa ăn, họ không dùng nĩa mà dùng những chiếc đũa bằng ngà voi hoặc gỗ mun với hai đầu bọc vàng hoặc bạc. Họ không bao giờ đụng ngón tay vào thức ăn. Do đó, họ không bao giờ rửa tay trước và sau bữa ăn. Người Đàng Ngoài ăn cơm trông giống như các nghệ sỹ trong một dàn nhạc. Tôi không thể tìm được một cách so sánh nào tốt hơn. HÌnh như họ ăn uống theo một nhịp điệu và khuôn mẫu nhất định và hình như sự thao tác của bàn tay và các hàm răng họ đều theo những chuẩn mực đặc biệt nào đó.
Bàn ăn của họ để trần, không trải khăn bàn và không có khăn lau tay. Bàn ăn chỉ được trùm lên một chiếc khăn đỏ thêu và kéo xuống tận đất. Mỗi người ngồi một bàn riêng, trừ ra trường hợp số khách đông quá mà phải ngồi hai người một bàn. Tất cả các bàn đều được dọn ăn một lần với nhau. Các món ăn đựng trong những chiếc đĩa nhỏ đều được bưng ra cùng một lúc. Dân Đàng Ngoài thích dọn một bữa ăn thịnh soạn với rất nhiều món ăn thừa mứa và đa dạng.
Bây giờ mô tả những nghi lễ mà dân Đàng Ngoài thực hiện trong những buổi tiệc. Chủ nhân muốn mời ai đó đến dự tiệc đều phải gửi một ngày trước đó một tập sách mời trong đó có cả thực đơn của bữa tiệc (3). Tôi đã được xem một tập sách mời với nội dung sau đây: “Chao-ting (4)đã sửa soạn một bữa ăn với vài loài rau co (5)đã rửa sạch cốc chén, đã quét dọn nhà cửa sạch sẽ, để mời quý ông Se-tang (6)chiếu cố tới dự, đem lại những câu chuyện sảng khoái và triết lý hùng biện của ngài và khẩn xin ngài ban cho tôi được vinh hạnh này”. Trên trang đầu, người ta viết giống như là một địa chỉ tên người được mời với danh hiệu cao quý nhất và kể ra các chức tước của vị khách mời. Với tất cả khách mời chủ nhân đều làm như thế.
Đến ngày ăn tiệc, chủ nhân lại gửi từ rất sớm đến khách được mời một tập sách mới (7)với nội dung như lần trước để nhắc nhở lời mời lần trước. Đến giờ ăn tiệc, chủ nhân lại gửi cuốn sách mời đó với một gia nhân đến để đưa đón vị khách và để nhấn mạnh đến sự mong đợi của chủ nhân đang trông đợi được đón tiếp vị khách mời. Khi các khách mời đã đến và trước khi ngồi vào bàn, chủ nhân cầm một cái chén bằng vàng hay bạc, đưa hai tay lên cao, chào vị khách có chức tước cao quý nhất, sau đó ông ta ra khỏi phòng và đi ra sân, quy mặt về hướng nam, và sau khi dâng rượu cúng các vị thần bảo vệ nhà mình, thì đổ rượu xuống đất xem như là cử chỉ tế thần thánh.
Sau nghi lễ ấy, mọi người ngồi vào bàn ăn đã được xếp riêng cho từng người. Trước khi ngồi, các vị khách mời chúc tụng nhau từng người một. Việc này kéo dài hơn một giờ. Người ta uống rượu và chúc tụng nhau không ngừng. Vị khách có chức vị cao nhất nâng cốc đầu tiên, các vị khác uống tiếp và mọi người chào mừng chủ nhà. Mặc dầu chén rượu khác bé nhỏ và không sâu, khoảng một hạt dẻ, nhưng họ vẫn uống thong thả và nhiều lần cho đến khi trên trán hiện ra những nếp nhăn. Họ kể những câu chuyện vui vẻ và đặt ra các trò chơi nhỏ để nếu ai thua thì phải bị phạt uống rượu tiếp.
Đây là một sự tiêu khiển kèm theo một thứ nhạc rất ồn ào điếc tai mà người ta chưa bao giờ được nghe. Nhạc cụ là những chiếc đĩa bằng đồng thanh hay thép (có lẽ là cái chiêng hoặc thanh la –NTH) mà âm thanh cao và rất chói tai, một cái trống làm bằng da trâu, mà các nhạc công đánh bằng dùi, có khi bằng chân, giống như các nhạc sĩ hát dạo bên nước Ý. Và cuối cùng là các cây sáo mà âm thanh nghe bi thảm hơn là cảm động. Giọng hát các nghệ nhân cũng có một điệu thê thảm như vậy. Các diễn viên trong các buổi tuồng này đều là các em trai độ 12 đến 15 tuổi. Các ông trùm đoàn tuồng dẫn chúng đi biểu diễn từ tỉnh này sang tỉnh khác và ngừơi ta coi chúng như là cặn bã của dân bần cùng. Tôi không thể nói được các thứ tuồng đó tốt hay xấu cũng như luật lệ của các loại tuồng ấy. Cảnh diễn tuồng xem ra có vẻ bi thảm: tôi đoán như vậy dựa trên tính cách liên tục của các diễn viên và sự giết chóc giả vờ mà họ biểu diễn. Trí nhớ các em làm tôi kinh ngạc: chúng thuộc lòng đến 40 hay 50 hài tuồng, và buổi diễn tuồng ngắn nhất kéo dài thường đến 5 giờ đồng hồ. Chúng mang đi khắp nơi “nhà tuồng” của chúng. Mỗi khi người ta mời chúng đến làm tuồng, chúng sẵn sàng trình diễn một hài tuồng nào đó mà họ thích, chúng liền trình diễn ngay mà không cần chuẩn bị trước.
Vào giữa bữa tiệc, một trong các người diễn tuồng đi một vòng quanh các bàn ăn và xin một phần thưởng nho nhỏ. Các đầy tớ hầu hạ buổi tiệc cũng làm như vậy và ang tiền thưởng đó lại giao cho chủ nhân. Người ta dọn ngay trước các vị khách mời một buổi tiệc mới, nhưng là để dành cho những người hầu bàn.
Buổi tiệc kết thúc như lúc ban đầu. Các vị khách mời hết lời khen ngợi gia chủ, nào là các món ăn ngon, nào là lòng hiếu khách rộng lượng của chủ nhân. Gia chủ đáp lễ bằng những lời xin lỗi khiêm nhường và cúi đầu tạ tội vì đã không tiếp đãi tương xứng với phẩm chất đáng kính của các vị khách.
Chú thích:
(1) Thư này tác giả gửi bà bà tước…(không cho tên).
(2).Có lẽ vì Đàng Ngoài là xứ nóng, khách lại được mời ngồi gần cửa cho mát, đang lúc bên Pháp là xứ lạnh, khách được mời ngồi bên trong gần lò sưởi cho ấm.
(3) Có lẽ bữa tiệc của một hạng quan lại hoặc hoàng gia giàu có.
(4) và (6) Nguyên văn trong tiếng Pháp. Đây là tên người Việt Nam phiên âm chữ Hán, ví dụ Mặc Đăng Dung ông viết Moteng-Youg.
(5) Kiểu nói khiêm hạ như chúng ta quen nói “bữa cơm dưa cà”.
(7) Một loại thiệp mời.








