Một câu thơ trong Truyện Kiểu: "Ba sao giữa trời”
Phát đoạn
Truyện Kiềucủa Nguyễn Du có câu:
Đêm khuya gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời
Bấy lâu nay, trong những bảnTruyện Kiềubằng Quốc ngữ có chú thích, chưa thấy nhà chú thích nào cắt nghĩa được câu ấy. Hãy kể những bản có tiếng nhất: bản của hai ông Phó bảng Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim; bản của ông Phó bảng Nguyễn Can Mộng; bản của ông Hồ Đắc Hàm. Kỳ dư những bản khác, hoặc vì chú thích sơ lược, hoặc vì in lôi thôi, không kể ra đây làm gì.
Học uyên bác như ông Phó bảng Bùi Kỷ, nguyên Giáo sư Trường Cao đẳng Hà Nội, và ông Trần Trọng Kim, mà đến mấy chữ “ba sao giữa trời” cũng phải ngẩn ngơ, thời cũng lấy làm lạ.
Tôi không phải tài gì, nhưng thấy các tác giả chú thích ấy bối rối, tôi thường để ý suy nghĩ tìm tòi rồi một hôm chừng như đã tìm được.
Nay xin thảo ra đây để hỏi lại các nhà nhiều nghe rộng thấy.
Tìm nghĩa
Nguyễn Du, cũng như nhiều nhà nho khác, không thể nào làm văn mà không dùng điển tích, nhất là điển tích ấy lấy trongTứThư,NgũKinh.Nếu ta có thể tìmđược di cảo củaNguyễn Du mà trong ấy lại có chú thích nữa, thì cần gì phải tìm đâu ra nữa.
Trước đây ngoài 20 năm, ông Đốc phủ sứ Phạm Kim Chi có xuất bản quyểnKim Túy tinh từ(tức là một tên khác củaTruyện Kiều) do nhà in Huỳnh Kim Danh ở Sài Gòn in cho. Trong bài tựa cho bản ấy, ông Phạm Kim Chi nói rằng đấy là bản chép y nguyên cảo của Nguyễn Du.
Ông Đốc phủ sứ Phạm Văn Tươi, cũng trong bài tựa, bằng chữ Pháp, cho bảnKim Túy tinhtừlại thêm rằng chính những lời chú thích trong bản ấy là chép theo lời chú thích do tay Nguyễn Du viết ra để cho rõ thêm lời văn của mình. Ông Tiến sĩ Nguyễn Mai (1), dòng dõi của Nguyễn Du, và là người đã đưa “gia bảo” cho ông Phạm Kim Chi sao lại, cũng lại nói trong một bài tựa bằng chữ Nho rằng chính bản này là đúng bản thảo của Nguyễn Du.
Bao nhiêu lời chứng ấy có lẽ là thật, ta có lẽ nào nên tin rằng sai vì một nhà nho lão thành như ông Nguyễn Mai tưởng không thể không chân thành.
Vả lại ông Tiến sĩ Nguyễn Mai hiện đương còn mạnh khỏe ở tại Hà Tĩnh; vài tháng rồi ông mới được Nam Triều ân tứ hàm Tam phẩm, thời ông có thể đưa bản thảo của Nguyễn Du cho ta xem, hay là viết thơ trả lời cho ta biết nếu ta muốn tìm biết rõ nguyên vănTruyện Kiều.
Nếu quả thật Nguyễn Du đã tự tay chú thích lấy văn mình, theo như các lời tựa trong bảnKim Túytinh từ,thời ta còn phải đi tìm kiếm đâu xa hơn nữa. Vả lại cũng không biết tìm đâu hơn nữa, nên tôi lại bằng cứ ở bản này.
Tiếc thay, trong bản này chỉ thấy ngắn ngủi có mấy tiếng:“Kinh Thi:Tam tinh tại thiên”.
Tìm nguồn
Theo đó, ta hãy giởKinh Thira xem. Nơi chươngTrù Mâu,ta thấy có câu: “Trù mâu thúc tân, Tam tinh tại thiên...”. Ở dưới có lời chú của Châu Hy rằng: “Tam tinh là sao Tâm vậy. Tại thiên (giữa trời) là bao giờ chiều hôm bắt đầu thấy sao này mọcở phương đông, thì ghi lấy làm tháng Thìn”.
Thế thì sao Tâm là sao nào? GiởKinh Thinơi chương Thất nguyệt thấy câu: “Thất nguyệt lưu Hỏa...” rồi dưới có mấy lời chú của Châu Hy: “Hỏa là sao Đại Hỏa, tức là sao Tâm vậy. Chiều hôm về tháng sáu nó xế hướng nam, qua đến tháng bảy chiều hôm nó đổ về hướng tây”.
Xét lí
Nếu theo lời chú của Châu Hy, thì “Ba sao” trongTruyện Kiềuchẳng là chỉ sao Đại Hỏa chăng?
Nay trong câu chuyện Kiều đang nói về mùa thu: “Đêm thu gió lọt song đào”. Nhưng mà nói về khoảng nào trong mùa thu? Lên trên mấy câu,Truyện Kiềuđã có lời: “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô...”. Thế là chỉ về đầu mùa thu.
Bấy giờ về đầu thu, và “nửavànhtrăng khuyết” đã mọc rồi, thì còn thấy sao Đại Hỏa giữa trời nữa chăng?
Xét ra, theoKinh Thư,phần Nghiêu Điển có câu:
“Lấy khi ngày dài nhất, và chiều hôm sao Đại Hỏa lên đến giữa trời, ghi làm ngày trọng hạ” (solstice d’été).
Lại trongKinh Lễ,nơi thiênNguyệt Lệnhcó câu:
“Tháng cuối mùa hạ, mặt tròi ởtại sao Liễu, chiều hôm sao Đại Hỏa đã lên đến giữa trời”.
Lên đến giữa trời, ở đây, nghĩa là lên đến đường Tý Ngọ chạy đụng với Thiên Đính (méridien céleste passant par le zénith).
Còn như “nửa vành trăng khuyết” (dernier quartier) có mọc chăng là mọc sau khi mặt trời lặn sáu giờ đồng hồ, nghĩa là khoảng nửa đêm. Trăng ấy tức là trăng đêm 21 của Âm lịch. Vả lại, ởtrước nữa, chỗ thuật chuyện thơ “Tích Việt”,Truyện Kiềuđã có câu: “Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng? Chim hôm thoi thót về rừng, Đóa đồ mi đã ngậm trăng nửa vành...”.
Như thế thì câu Kiều: “Đêm thu gió lọt song đào, nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời”, đây chỉ về lúc giữa đêm trở về khuya của một đêm đầu thu. Hỏi lúc bấy giờ sao Đại Hỏa còn thấy nữa không? Quyết rằng không. Vì từ tiết trọng hạ, đầu hôm sao Đại Hỏa đã lên cực điểm rồi, thì về nửa đêm nó đã lặn mất.
Thế thì “Ba sao” trong câu chuyện Kiều, không phải Tam Tinh của Châu Hy đã nói trong lời chú ởKinh Thi,nghĩa là không phải sao Đại Hỏa.
Tìm nguồn khác
Ta hãy nên tìm nguồn khác. Thật tôi không biết tìm đâu, vì tôi không có được học Nho rộng như các nhà học khoa cử ngày xưa. Tôi chỉ giởTừ nguyênra xem. Thì thấy nói: Về “Tam tinh” có 2 thuyết: một chỉ sao Thương (tức là sao Đại Hỏa), một chỉ sao Sâm.
Đây tôi xin mở một đoạn đề ngoại (parenthèse). Các nhà chú thíchTruyện Kiều,từ ông Bùi Kỷ đến ông Hồ Đắc Hàm, đều lầm rằng Sâm Thương là sao Hôm, sao Mai, cho nên nói Sâm Thương cùng là một và chỉ Kim tinh (Vénus). Ông Nguyễn Văn Ngọc, trong quyểnĐào Nương Ca(Vĩnh Hưng Long thư quán, Hà Nội xuất bản) cũng lầm như thế.
Sự thật sao Thương cũng gọi là sao Đại Hỏa, hay sao Tâm là thuộc về tòa sao Scorpion; còn sao Sâm, cũng gọi là sao Phạt, là thuộc về tòa sao Orion, tục ta gọi là sao Cày và Seorpion cách nhau gần nửa vòng thiên cầu. Sao Sâm đi trước sao Thương gần 11 giờ đồng hồ, nghĩa là như 6 giờ chiều sao Sâm mọc, thì qua 5 giờ hơn sao Thương mới mọc. Ngược lại nếu 6 giờ chiều sao Thương lặn thì qua tối 7 giờ sao Sâm mọc.
Nay ở đoạn trên đã dẫn câuKinh Thinói “Thất nguyệt lưu Hỏa” mà theo lịch nhà Hạ, tức là tháng đầu thu. Thế thì trong tháng bảy đầu thu ấy, nếu chiều lại sao Đại Hỏa đã xế về tây rồi, thì sao Sâm cũng sắp mọc lên.
Vậy đến nửa đêm, khi thấy được nửa vành tràng khuyết, thì sao Đại Hỏa đã lặn từ lâu, còn sao Sâm thì cũng từ lâu đã mọc lên rồi.
Tới đây hãy tạm nhận “Ba sao” của Nguyễn Du nói là sao Sâm và 3 ngôi ấy, chính là 3 ngôi Delta, Epsilonn và Dzêta của tòa Orion.
Một nhà thiên văn học, nếu có đủ chứng tích ngày tháng hôm đêm Thúy Kiều bị bọn Khuyển Ưng bắt, thì có thể đoán ra biết được trăng hôm ấy mấy giờ mọc, và sao Sâm mấy giờ mọc.
Đây xin nhắc rằng những lời dẫn về thiên văn rút trong cácKinh Thi, ThơvàLễđều nói về thời nhà Chu, cách đây ngoài 2.000 năm. Từ ấy đến nay, hạ chí điểm (point vernal) đã sai chạy khác nhau. Bởi thế cho nên lịch Trung Hoa hiện nay biên về sự mặt trời nhập thiên cung, có sai di hết một cung.
Trở lại câu Kiều
Nay đã nhận “Ba sao” là sao Sâm rồi, thì 2 chữ này ở trong câu Kiều phải viết bằng chữ hoa, vì đó là tên riêng của một tòa sao, chớ không phải là tiếng chỉ số.
Thong thả rồi tôi sẽ có bài khảo về Nhi thập bát tú của Tàu, cũng là giúp thêm cho hiểu mấy tiếng “Ba sao giữa trời” và không phải là không bổ ích cho trí thức. ■
Huỳnh U Maitức Phan Văn Hùm
BáoVăn Lang,số 27, ngày 23- 2-1940, tr.4-5
Chú thích:
(1) (1) Nguyễn Mai (1876-1954) cháu thi hào Nguyễn Du, đỗ cử nhân năm 1900 (cùng khoa Phan Bội Châu), tiến sĩ năm 1904 (cùng khoa Huỳnh Thúc Kháng), tục gọi là Nghè Mai (BT).
Thư mục tham khảo:
Viết bài này đã dựa theo những sách sau:
KinhThơ, Kinh Thi, Kinh Lễ.
Trung Quốc thượng cổ thiên văncủa Tân Thành Tân Tàng, người Nhật; dịch ra chữ Trung Quốc và do Thương vụ ấn thơ quán ở Thượng Hải xuất bản.
Étude d’astronomie indienne et d’astronomie chinoise của J.B. Biot.Nxb Hachette, Paris, thế kỷ XIX.
Astronomie Théorique et Pratiquecủa H.Buasse, Nxb Delagrave, Paris.
Thiên văn học, sách giáo khoa thư ở các trường Trung học bên Trung Quốc (không lựa tác giả là ai).