Một bản quy hoạch còn nhiều “sạn”!
TS Phạm Sỹ Liêm - Phó Chủ tịch tổng hội xây dựng Việt Nam :
Đề án chỉ đề cập đến quy hoạch của Hà Nội trước mở rộng, thế còn quy hoạch các đô thị như Hà Đông, Sơn Tây và trục phát triển Bắc Nam của tỉnh Hà tây (cũ) sao lại không được quan tâm? Vấn đề dự án mọc ra như nấm của Hà Tây trước sát nhập nay đang được xem xét điều chỉnh sao không thấy nêu?. Đối với quy hoạch Hà Nội năm 1998, điều quan trọng là đánh giá bản thân quy hoạch có nhược điểm thiếu sót gì không hay chỉ là yếu kém trong khâu thực hiện. Không kể các quy hoạch của Hà Nội trước đổi mới, không rõ vì lẽ gì mà quy hoạch Hà Nội năm 1996 vừa ráo mực lại đã có quy hoạch 1998? Với cung cách tuỳ tiện như vậy, có gì đảm bảo quy hoạch 2010 vài năm nữa lại không bị thay thế?. Phần đánh giá sơ bộ hiện trạng Hà Nội trình bày hơi manh mún, thiếu tính tổng hợp cao, chẳng hạn: vùng núi thì không biết núi cao bao nhiêu, có rừng và các danh thắng không (như hang động, thác nước), không thấy đề cập đến hệ thống hồ nội thành cũng như ngoại thành là tài nguyên du lịch quý giá; vấn đề động đất cũng như mối đe doạ của hồ Hoà Bình không được nói tới; hiện trạng nông nghiệp, nông thôn khá sơ sài...
Đề án nên sửa đổi vài chi tiết như: bỏ câu chuyện về trục tâm linh đi vì chưa hề được đề cập đến trong quá khứ và hiện nay chỉ là tín điều của vài người giàu óc tưởng tượng đem ra giới thiệu với tư vấn nước ngoài. Có đến 9 chiến lược phát triển không gian Thủ đô Hà Nội, như vậy có dàn trải quá không? Không phải chính sách nào cũng nâng lên thành chiến lược. Tuy nhiều chiến lược nhưng lại thiếu chiến lược phát triển không gian nông thôn, vùng ven sông Hồng, các vùng đồi núi Ba Vì và Sóc Sơn.
Không nên đưa trung tâm hành chính quốc gia về Mỹ Đình và xem đó là nơi trung chuyển, mà cần đặt ổn định vĩnh viễn tại nơi trước đây đã quy hoạch ở Tây hồ Tây, đưa nó về Ba Vì chỉ để xa dân thêm mà thôi. Việc phát triển các trục trung tâm, trục hướng tâm và trục phụ thiếu giải thích rõ ràng ý tưởng và mục tiêu quy hoạch, và thiếu cách tiếp cận hệ thống, gắn kết với hệ thống giao thông đối nội và đối ngoại của toàn Hà Nội. Trục Thăng Long nên có vì mục đích giao thông và quốc phòng...
TS.KTS Lê Trọng Bình - Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam :
Bản quy hoạch còn thiếu tầm nhìn, chưa đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ quy hoạch chung đã được phê duyệt, chỉ dừng ở vấn đề cụ thể, mang tính kỹ thuật, chưa giải quyết thoả mãn mục tiêu phát triển Thủ đô như đã xác định tại Pháp lệnh Thủ đô. Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật liên quan, giải pháp tổ chức không gian, quy hoạch sử dụng đất; kết cấu hạ tầng đều không đáp ứng, mâu thuẫn và thậm chí còn trái với những yêu cầu, quy định, nguyên tắc tại các văn bản Nhà nước đã ban hành như: Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị; Luật Đất đai; một số nghị quyết, quyết định... Cách làm và một số nội dung chủ yếu của quy hoạch chưa tuân thủ quy định tại Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch đô thị về quy hoạch xây dựng vùng và quy hoạch chung đô thị.
Phương án quy hoạch chung đang dẫn Thủ đô sẽ trở thành một siêu đô thị với quy mô dân số đã được đề xuất 9-12 triệu người. Điều này dẫn đến nhiều hệ luỵ về phát triển, quản lý đô thị, về môi trường, xã hội do siêu đô thị tạo nên, đồng thời gây tốn kém nguồn lực xã hội để giải quyết các tiêu cực, điều mà cả thế giới, đặc biệt các nước đang phát triển đang cố gắng giải quyết. Hơn nữa khi cơ sở kinh tế-xã hội chưa bền vững thì còn gây nên tình trạng đói nghèo ở Thủ đô. Quy mô đô thị như trên còn trái với nguyên tắc phát triển đô thị bền vững đã được các Đại hội Đảng VIII và X chỉ ra: “Từng bước hình thành mạng lưới đô thị hợp lý, tránh không tạo thành các siêu đô thị. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị...”
Bản quy hoạch chưa tuân thủ quy định luật đất đai năm 2003, quy hoạch chưa xác định các chỉ tiêu sử dụng các loại đất theo đúng yêu cầu của nhiệm vụ quy hoạch chung được duyệt. Việc cố tình đưa hành lang xanh vào khu vực xây dựng nông thôn, đưa toàn bộ đất xây dựng nông thôn vào vùng xanh là trái nguyên tắc hành lang xanh, gây ngộ nhận là phương án bảo đảm yêu cầu sinh thái, chưa kể bỏ sót nhiệm vụ đô thị hoá nông thôn.
Về tổ chức không gian, thiếu tính liên kết vùng, phân bố dân cư theo hướng chất tải vào khu vực trung tâm (4,6 triệu, bằng 2 lần hiện nay) vượt quá sức chứa không gian, môi trường khu vực. Quy hoạch chưa đánh giá yếu tố tự nhiên đầy đủ để tổ chức phân khu chức năng, trái nguyên tắc, quy định quản lý kiến trúc, cảnh quan (thiết kế đô thị) tại Luật Xây dựng...
PGS.TS.KTS Nguyễn Hồng Thục - Viện Nghiên cứu Định cư:
Có 4 vấn đề thuộc về tầm nhìn và quan điểm lựa chọn chủ thuyết cho bản quy hoạch này cần làm rõ: 1. Định hướng phát triển không gian đô thị không trùng khít với không gian phát triển kinh tế, gây lãng phí lớn nếu thực hiện quy hoạch; 2. Cơ sở thực tiễn về hiện trạng định cư, quy mô, chất lượng dân số chưa xác định được do quy hoạch đô thị làm trước chiến lược phát triển kinh tế xã hội Hà Nội đang làm; 3. Mô hình và cấu trúc không gian chưa vượt được căn bệnh “đầu to” vốn tồn tại ở những nước lạc hậu; 4. Trong đồ án không có định hướng quy hoạch không gian ngầm. Tầm nhìn 50 năm mà không có vai trò của không gian ngầm, chắc chắn là một quy hoạch không có tương lai. Những vấn đề khác như: Vị trí Trung tâm hành chính quốc gia, trục Thăng Long chỉ là chuyện nhỏ so với bốn vấn đề trên.
Việc tổ chức không gian và phân bố dân cư trong quy hoạch vẫn gần như đi ngược lại với động lực phát triển kinh tế-xã hội: các vùng phát triển dịch vụ cảng biển, hàng hoá, vùng công nghiệp lớn 10 năm qua chủ yếu ở phía Bắc và phía Đông, trong khi định hướng phát triển không gian các đô thị lại ở phía Tây và phía Nam như: Hà Đông, Hoài Đức, Chúc Sơn, Sơn Tây, Hoà Lạc, Xuân Mai, Phú Xuyên. Như vậy các đô thị vệ tinh mới xuất hiện ở phía Tây, đô thị lõi mở rộng cũng nằm phía Tây Nam . Năm đô thị vệ tinh chỉ có quỹ đất nông nghiệp là lớn, còn lại là một số chức năng mờ nhạt như: trường ĐH và CĐ, y tế, dịch vụ nghỉ dưỡng với quy mô cực nhỏ. Công nghiệp, dịch vụ hầu như chưa có, đóng vai trò vệ tinh có nghĩa là phải làm tất cả từ đầu. Như vậy với một nước nghèo, có thể chúng ta đang lặp lại sai lầm chủ quan, lãng phí khi cho phát triển đô thị ngược lại với các vùng đã và đang là động lực phát triển kinh tế-xã hội.
Việt Nam là quốc gia hiếm đất, người đông (bình quân đất đai đầu người là 0,4ha, xếp thứ 170/217 nước trên thế giới). Với dân số tăng bình quân 1,3 triệu người/năm, không lấy gì đảm bảo an ninh lương thực trong những thập kỷ tới. Theo quy hoạch, thu hồi gần 30% đất nông nghiệp (khoảng gần 1000km 2) cho các mục đích như xây dựng đô thị, hạ tầng, khu công nghiệp... sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến cư trú nông thôn.
Ngày nay, nhiều nước tìm đến việc sử dụng không gian dưới lòng đất của các trung tâm thành phố lớn với mục đích vượt qua sự thiếu thốn về diện tích. Cấu trúc thành phố dưới mặt đất đem lại khả năng đáp ứng nhu cầu hiện đại hoá giao thông, nó cho phép xây dựng hệ thống giao thông đi bộ ngầm và mạng lưới các dịch vụ công cộng trên đường đi của dân chúng mà không phá vỡ cấu trúc quy hoạch mặt đất. Tiếc thay bản quy hoạch không có lấy một bản vẽ về không gian ngầm, làm cho chính nó không có tương lai trong 30 năm tới...
GS.TSKH Nguyễn Mại - Nguyên Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội:
Hà Nội đã nhiều lần quy hoạch, trong đó có 2 lần do nước ngoài lập: trước năm 1980 do Liên Xô cũ và lần này. Người nước ngoài có chuyên môn, công nghệ, kinh nghiệm trong việc xây dựng quy hoạch, nhưng có nhược điểm là thiếu hiểu biết đầy đủ về lịch sử, truyền thống và phong cách sống của người Việt Nam . Do vậy, trong khi tận dụng thế mạnh thì cần lưu ý đến nhược điểm của họ. Khi xây dựng quy hoạch này nên lưu ý đến tính kế thừa quy hoạch năm 1996 và 1998, để những công trình đã và sẽ được xây dựng theo các quy hoạch đó vẫn tồn tại, trừ trường hợp bất khả kháng cần phải điều chỉnh. Làm thế nào để quy hoạch này tương đối ổn định khi đã được phê duyệt, chỉ điều chỉnh cục bộ khi cần thiết, đó là mong mỏi của người dân, bởi các quy hoạch Hà Nội trước đây đều bắt đầu từ ý đồ các nhà lãnh đạo cấp cao của đất nước và chính họ đã thay đổi định hướng và chỉ đạo lập quy hoạch mới. Mỗi khi xây dựng quy hoạch lại tốn kinh phí và tác động đến tính ổn định của thành phố. Có bao nhiêu dự án đã được duyệt phải dừng lại chờ quy hoạch, trong đó không ít dự án đụng chạm đến đời sống và việc làm của người dân Thủ đô.
Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng không nên đặt vấn đề dời trung tâm hành chính quốc gia lên Ba Vì hoặc phía Bắc đô thị Hoà Lạc. Theo quy hoạch trước đây, khu vực quanh hồ Hoàn Kiếm là Trung tâm hành chính của thành phố, quận Ba Đình và Tây Hồ là Trung tâm hành chính quốc gia, ở đây đang xây dựng hai công trình khá hoành tráng là trụ sở và nhà làm việc của Quốc hội với kinh phí nhiều nghìn tỷ đồng. Hàng chục Bộ đang xây dựng trụ sở mới ở Nhân Chính, Mỹ Đình, Từ Liêm cũng ngốn các khoản chi ngân sách khá lớn. Khu ngoại giao đoàn đã được quy hoạch và bắt đầu có trụ sở mới của sứ quán nước ngoài. Thành phố giao lưu quốc tế đang được hình thành. Khu trung tâm tài chính với quy mô khá lớn và với ý đồ trở thành Trung tâm tài chính khu vực cũng đã được quyết định. So với khu vực Ba Vì, nơi các tác giả bản quy hoạch cho rằng “đây là vị trí thích hợp hơn nhờ có khả năng tiếp cận dễ dàng với các tuyến đường giao thông công cộng và sự kết nối với đường quốc lộ rất thuận lợi”thì khu vực Ba Đình có ưu thế hơn nhiều.
Hiện nay Hà Nội cũ có đến gần 30 khu đô thị đang được xây dựng dở dang, trong đó có những “ốc đảo” thiếu trường học, nhà trẻ, bệnh viện, được nối với trung tâm thành phố và các khu đô thị khác bằng những con đường chật hẹp. Bốn quận nội thành cũ chưa được chỉnh trang, nhiều con đường bị đào bới liên tục, “mạng nhện” chưa được ngầm hoá,v.v, do vậy quy hoạch này cần có phần ưu tiên thực hiện việc hoàn chỉnh cải tạo khu nội thành và gần 30 khu đô thị này với mục tiêu trở thành khu đô thị hiện đại hoàn chỉnh...
PGS.TS Nguyễn Khắc Vinh - Chủ tịch Tổng hội địa chất Việt Nam :
Trong quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội, tôi đề nghị phải chú ý đến các vấn đề sau: Thứ nhất là địa hình, địa mạo của Hà Nội. Địa hình toàn thành phố Hà Nội có tính phân bậc khá rõ nét bao gồm: núi cao, đồi núi thấp, gò đồi và đồng bằng thấp có các ô trũng và đầm lầy. Với địa hình địa mạo của Hà Nội như vậy, tác động của các yếu tố bên ngoài sẽ khác nhau trên diện tích đất của Thủ đô. Thứ hai là các đứt gãy, Hà Nội chịu sự tác động của 2 hệ đứt gãy thuộc loại lớn nhất miền Bắc là đứt gãy sông Hồng ở phía tây nam thành phố và hệ thống đứt gãy Đông Triều ở phía đông bắc. Trong bình đồ cấu trúc Hà Nội cần quan tâm tới các đứt gãy chính là: đứt gãy sông Hồng, đứt gãy Vĩnh Ninh (sông Chảy) và đứt gãy sông Lô. Thứ ba là các khe nứt, trong phạm vi Hà Nội có các khe nứt phát triển trong các đá gốc. Kích thước các khe nứt dao động từ vài chục centimet đến hàng trăm mét. Thứ tư là vấn đề nứt đất, hiện tượng nứt đê, nứt đất trên địa bàn Hà Nội kéo theo sự biến dạng các công trình xây dựng đã ghi nhận ở nhiều nơi. Thứ năm là vấn đề động đất, trong phạm vi Hà Nội, các nhà địa vật lý đã ghi được hơn 1800 trận động đất, trong đó có trận động đất năm 1285 làm bia đá chùa Báo Thiên gãy đôi. Khi quy hoạch đô thị và xây dựng các công trình cần có biện pháp kỹ thuật kháng chấn để chống được các trận động đất có thể xảy ra. Thứ sáu là các tai biến ngoại sinh như sụt lún, xói lở bờ sông, xói mòn bề mặt, trượt đất. Thứ bẩy là cần quan tâm đến khoáng sản và khai thác khoáng sản. Hà Nội có nhiều loại khoáng sản vật liệu xây dựng, khoáng chất công nghiệp và một số khoáng sản kim loại. Khai thác khoáng sản ở Hà Nội đang phát triển, tạo công việc cho người lao động nhưng làm ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên và môi trường. Do đó khi quy hoạch chung xây dựng Thủ đô phải chú ý đến quy hoạch khai thác khoáng sản trong địa bàn Hà Nội.








