Mỗi nhà khoa học phải có một Tổ quốc
- Thưa GS. TSKH Đặng Vũ Minh, được biết, ông là một nhà khoa học đã nhiều năm giữ các trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, ở các cương vị đòi hỏi năng lực và tâm huyết trong việc tập hợp và phát huy lực lượng trí thức nói chung, trí thức khoa học và công nghệ nói riêng. Xin ông cho biết đôi nét về những bài học kinh nghiệm mà ông rút ra được từ quá trình công tác và cống hiến của mình.
GS. TSKH Đặng Vũ Minh: Tôi đã hơn bốn mươi năm làm công tác nghiên cứu và quản lý cho nên hiểu khá rõ đội ngũ trí thức ở nước ta, đặc biệt là đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ. Trước hết, tôi thấy cần đánh giá đúng đội ngũ trí thức mà chúng ta đang có. Trong một cuộc tiếp xúc gần đây, một quan chức nước ngoài cho rằng nước ta chỉ cần tuyển khoảng 200 sinh viên tốt nghiệp, đưa sang các trường đại học nước ngoài đào tạo thêm 4 năm nữa như thế là đủ lực lượng nòng cốt xây dựng trường đại học đẳng cấp cao. Tôi nghĩ mọi việc không đơn giản như vậy. Giả sử thực hiện đúng như lời khuyên đó, thì liệu sẽ có bao nhiêu người sau khi được đào tạo sẽ trở về nước và trong số những người trở về, bao nhiêu người sẽ có đủ kinh nghiệm thực tế, đủ kỹ năng sư phạm có thể đảm nhiệm tốt công tác giảng dạy ở các trường đại học Việt Nam trong hoàn cảnh như hiện nay? Tôi đánh giá cao tầm quan trọng và sự cần thiết của việc đào tạo cán bộ trẻ ở nước ngoài, song theo tôi, trước hết hãy đặt niềm tin và phát huy năng lực vào đội ngũ trí thức mà chúng ta hiện có. Vừa qua, tôi có dẫn đầu đoàn công tác của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đi giám sát một số công trình trọng điểm quốc gia như nhà máy thuỷ điện Sơn La, nhà máy lọc dầu Dung Quất, đường Hồ Chí Minh... Ở tất cả những công trình mà đoàn chúng tôi đã qua, tôi vui mừng nhận thấy rằng ở đâu cán bộ của chúng ta cũng đóng vai trò chủ chốt trong việc thực hiện những nhiệm vụ khoa học và công nghệ quan trọng của đất nước.
Từ tất cả những gì mà tôi đã trải qua trong những năm làm việc, tôi nhận thức sâu sắc rằng, đại đa số trí thức Việt Nam có lòng yêu nước, yêu dân tộc, có truyền thống hy sinh cho cách mạng, gắn bó với đất nước từ những năm tháng khó khăn nhất và đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đổi mới. Đấy là tài sản vô giá của dân tộc.
- Làm thế nào để phát huy năng lực của trí thức khoa học và công nghệ?
Cần hiểu biết đồng cảm với người trí thức Việt Nam và môi trường làm việc của họ. Tôi nghĩ đến mấy việc cần làm.
Thứ nhất, cần cải thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích và tạo ra môi trường, không gian sáng tạo. Lao động trí óc có những đặc thù riêng, đòi hỏi những điều kiện thích hợp. Ví dụ, về độ tuổi nghỉ hưu của người làm khoa học, có nên áp dụng như người làm công tác hành chính hay không? Tôi cho là không nên bởi nếu máy móc như vậy chúng ta có thể mất những nhà khoa học có trình độ cao và giàu kinh nghiệm nhất. Ở một số ngành khoa học, đặc biệt là ngành khoa học xã hội, độ tuổi 70 lại chính là độ tuổi cống hiến có hiệu quả nhất. Tôi được biết, ở nước ta có nhà khoa học nổi tiếng được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh nhờ những công trình nghiên cứu mà ông viết khi đã… ngoài 70 tuổi.
Tôi xin nêu một ví dụ khác, đó là việc cần đổi mới cơ chế quản lý tài chính cho phù hợp với công tác nghiên cứu khoa học. Khi còn làm Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam , tôi nhận được đơn của một cán bộ khoa học trẻ rất có năng lực xin chuyển công tác sang một lĩnh vực khác, không liên quan gì đến chuyên môn mà anh đã được đào tạo. Hỏi chuyện tôi mới biết, hàng tháng anh phải đi tìm mua hoá đơn đỏ để thanh toán các khoản chi trong nghiên cứu cho hợp với các quy định về tài chính (!). Mỗi lần đem đến phòng Tài vụ để thanh toán, anh vừa sợ lại vừa ngượng nên cuối cùng đã quyết định chuyển đi làm việc khác.
Thứ hai, cần đặc biệt quan tâm đến công tác vận động trí thức. Tôi xin nhắc lại một câu chuyện sau đây:
Năm 1954, trước khi về tiếp quản Thủ đô, Chính phủ kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến công tác vận động trí thức. Từ chiến khu Việt Bắc, nhiều cán bộ đã được bí mật cử vào Hà Nôi còn bị tạm chiếm để tiếp xúc với các trí thức và chuyển cho họ những bức thư của các bạn đồng nghiệp đang đi theo kháng chiến thuyết phục họ ở lại miền Bắc để phục vụ đất nước. Sau khi tiếp quản Thủ đô, giữ đúng lời hứa, trong vòng suốt mấy năm Chính phủ vẫn cho họ giữ nguyên mức lương cũ cao gấp nhiều lần so với mức lương của các bạn đồng nghiệp từ kháng chiến trở về. Những chính sách đối xử chân thành, thấu tình, đạt lý như vậy đã lôi kéo được nhiều trí thức ở lại và đem hết sức mình phục vụ chế độ mới.
Thứ ba, đó là việc động viên, khen thưởng đối với trí thức. Ngay từ năm 1955, trong những năm tháng đầu tiên sau kháng chiến, giữa lúc còn bề bộn với biết bao công việc, Nhà nước đã có phong chức danh giáo sư đợt đầu tiên cho 13 trí thức, phần lớn trong số đó đã có công trong cuộc kháng chiến chống Pháp, như GS. Tạ Quang Bửu, GS. Đặng Văn Ngữ, GS. Tôn Thất Tùng, GS. Đặng Thai Mai… Những giáo sư này đã tiếp tục có những cống hiến xuất sắc cho đất nước. Đối với trí thức thì đãi ngộ về vật chất cũng quan trọng nhưng nhiều khi, một lời động viên đúng lúc, một cách cư xử chân tình hay một hình thức khen thưởng kịp thời cũng có tác dụng không kém.
Trong tiếp xúc với trí thức, cần chú ý từ việc bình thường nhất như trả lời từng lá thư góp ý cho đến việc tạo điều kiện tổ chức các buổi tiếp xúc, trao đổi ý kiến với các cán bộ có trách nhiêm về các vấn đề của đất nước mà trí thức rất quan tâm. Khi tiếp nhận các ý kiến tư vấn, phản biện của trí thức nói chung cũng như các chuyên gia về khoa học công nghệ nói riêng cũng cần có sự thông cảm và thiện chí cả từ hai phía: người góp ý và người tiếp nhận ý kiến với ý thức xuất phát vì lợi ích chung của cả dân tộc, của cả đất nước.
- Vừa qua, Liên hiệp hội Việt Nam đã bước đầu có sự hợp tác với Viện Nghiên cứu lập pháp và một số uỷ ban của Quốc hội trong việc góp phần hoàn thiện các dự thảo luật. Là một uỷ viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Giáo sư suy nghĩ như thế nào để tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự đóng góp của trí thức khoa học và công nghệ nói chung và Liên hiệp hội Việt Nam nói riêng, phục vụ cho sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước?
Như chúng ta đều biết, Quốc hội là cơ quan lập pháp, với ba chức năng: xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định các công việc quan trọng của đất nước. Để có được các quyết định đúng đắn, một trong số những việc cần làm là trao đổi và tiếp thu ý kiến với các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn. Tôi còn nhớ cách đây mấy năm, sau khi chuyển sang công tác ở Quốc hội, Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường do tôi phụ trách được phân công chủ trì thẩm tra dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử. Phải nói rằng đây là một luật rất chuyên ngành. Chúng tôi đã mời nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực này đang công tác ở các viện nghiên cứu, các trường đại học trong và ngoài nước, trong các hội thành viên của Liên hiệp hội Việt Nam cùng tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng cho dự thảo luật. Kết quả là dựa vào các ý kiến tư vấn, phản biện của các chuyên gia, cơ quan chủ trì soạn thảo Luật là Bộ Khoa học và Công nghệ đã cùng Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã sớm hoàn thành dự thảo luật để đưa ra trình và được Quốc hội thông qua với số phiếu tán thành khá cao.
Theo tôi, những ý kiến tư vấn, phản biện của trí thức khoa học và công nghệ trong Liên hiệp hội Việt Nam đóng góp cho việc xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước là rất quý báu, vì ba lý do sau:
Thứ nhất, đấy là những chuyên gia có trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, và đặc biệt trong các lĩnh vực có liên quan đến đặc điểm thiên nhiên của nước ta là những lĩnh vực mà không một chuyên gia nước ngoài nào có thể thay thế được. Hơn thế nữa, Liên hiệp hội Việt Nam có khả năng tập hợp được các chuyên gia trong nhiều ngành có liên quan đến những vấn đề cần tư vấn và phản biện
Thứ hai, các chuyên gia được hỏi ý kiến là những người rất gắn bó với đất nước, rất tâm huyết với sự nghiệp chung của đất nước. Hầu hết các ý kiến phát biểu đều xuất phát từ ý thức trách nhiệm rất cao trước lợi ích chung của đất nước, của dân tộc.
Thứ ba, ý kiến tư vấn, phản biện của các chuyên gia thuộc Liên hiệp hội Việt Nam rất trung thực và khách quan, không bao giờ bị một sức ép nào cả.
Tất nhiên, trong quá trình trao đổi ý kiến ai cũng có cái nhìn chủ quan của mình. Vì vậy, người góp ý cũng như người tiếp nhận ý kiến cần hết sức thiện chí, lấy lợi ích chung làm trọng.
- Sau gần một phần ba thế kỷ Liên hiệp hội Việt Nam xây dựng và trưởng thành, đã có những đóng góp xứng đáng trong công cuộc đổi mới, được Đảng và Nhà nước ghi nhận, tuy nhiên cũng còn có những tồn tại cần khắc phục. Theo ông, Liên hiệp hội Việt Nam cần đặc biệt tập trung vào những nội dung nào trong phương hướng hoạt động nhiệm kỳ VI (2010 – 2015) và tầm nhìn 2020?
Hiện nay, tôi là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Namvà cũng là Chủ tịch Hội Phân tích Lý – Hoá – Sinh Việt Nam . Cảm nhận đầu tiên của tôi là sinh hoạt hội rất thích thú. Ở đấy, anh em gặp gỡ nhau, cùng chia sẻ các ý tưởng khoa học và tâm sự về những vấn đề còn trăn trở, không có sự phân biệt gì. Mọi người đến với các hội là hoàn toàn tự nguyện. Tuy kinh phí còn hạn hẹp, nhưng nhìn chung phần lớn các hội thành viên đã hoạt động có hiệu quả. Có thể nói, Liên hiệp hội Việt Nam đã thực sự là một tổ chức tập hợp trí thức.
Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh vai trò của Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam do Liên hiệp hội Việt Nam và Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp tổ chức trong việc tôn vinh các nhà khoa học có thành tích xuất sắc được tuyển chọn nghiêm túc trong suốt 15 năm qua bởi một hội đồng gồm những chuyên gia có trình độ cao trong nhiều lĩnh vực. Hiện nay cũng có nhiều loại giải thưởng, nhưng dưới con mắt tôi và nhiều anh chị em cán bộ khoa học khác, việc được nhận giải thưởng này thực sự là một vinh dự lớn đối với các cán bộ khoa học và công nghệ. Tôi rất mong rằng trong những năm sắp tới, Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam sẽ tiếp tục giữ vững truyền thống này.
Như trên đã nói, tôi đánh giá rất cao chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam . Tôi cho rằng, nếu trong số mười ý kiến đóng góp, dù chỉ hai, ba thậm chí một ý kiến được chấp nhận thì sự đóng góp của Liên hiệp hội Việt Nam đã có ý nghĩa lắm rồi.
Là tổ chức tập hợp và phát huy đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, tôi mong rằng trong những năm sắp tới Liên hiệp hội Việt Nam sẽ tiếp tục được Đảng và Nhà nước tạo nhiều điều kiện hơn nữa để hoạt động nhằm tập hợp và đoàn kết trí thức trong và ngoài nước, góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước
Để kết thúc bài phỏng vấn này, tôi muốn nhắc lại câu nói của nhà khoa học Pháp nổi tiếng Louis Pasteur mà nhiều năm về trước tôi đã đọc trong một ấn phẩm của Liên hiệp hội Việt Nam : “Khoa học không có Tổ quốc, nhưng mỗi nhà khoa học thì phải có một Tổ quốc”.
- Thay mặt trang web vusta.vn, xin chân thành cảm ơn giáo sư đã dành cho bạn đọc những lời tâm sự chân thành và cởi mở. Kính chúc ông mạnh khoẻ, có nhiều thành tựu đóng góp cho đất nước và Liên hiệp hội Việt Nam .








